Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 137/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 137/195 (79B – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng tu! Mời xem Cảm Ứng Thiên, đoạn kinh văn thứ 69: Sính chí tác uy, nhục nhân cầu thắng.” (Phô trương oai thế cho thỏa chí. Làm nhục người khác để giành phần thắng).

Và đoạn thứ 75: Thừa uy bức hiếp. Túng bạo sát thương.” (Cậy oai bức hiếp, phóng túng hung bạo, giết hại tổn thương kẻ khác). Đoạn này là “cang cường chi ác”.

Phần đầu tiên chúng tôi đã báo cáo qua với các vị rồi. Trong đoạn mở đầu của chú giải đã nêu cho chúng ta bốn chữ: Chánh, Trực, Hòa, Huệ. Bốn chữ này đích thực là căn bản cho chúng ta làm người, lập thân xử thế. Nhà Nho và nhà Phật đều nói đến phát Bồ-đề tâm. Trong Quán Kinh, Thế Tôn nói Bồ-đề tâm là tâm chí thành, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm. Trong Khởi Tín Luận thì gọi Bồ-đề tâm là: trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm. Chúng ta đem kinh luận tổng hợp lại để xem thì thực ra chính là câu mà nhà Nho thường nói đến “thành ý chánh tâm”.

Chánh trực nghiêm khắc với bản thân”, chữ “chánh” ở đây chính là chánh tâm, chánh tâm là trực tâm. “Đối đãi ôn hòa, ân huệ với người khác” chính là đại bi tâm, chính là hồi hướng phát nguyện tâm. Do vậy chúng ta cần cẩn thận đọc tụng, thể hội lời dạy của những vị đại Thánh đại Hiền trong thế xuất thế gian. Tuy những ngôn ngữ các Ngài nói không tương đồng nhưng ý nghĩa lại hoàn toàn đồng nhất. Cho nên thế pháp và Phật pháp rất dễ dung hòa, thế pháp và Phật pháp cũng không có chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Chân lý đích thực chỉ có một. Trong Phật pháp gọi là Phật, gọi là tâm tánh,  các tôn giáo khác gọi là Thiên Chúa, gọi là Thánh. Chân lý như thế có tác dụng rất rộng lớn mà không có bờ mé, do vậy mới có khả năng phổ độ hết thảy chúng sanh. Chữ “độ” có nghĩa là trợ giúp, hướng dẫn, dạy dỗ, giúp đỡ và phục vụ. Chúng ta từ điều này mà xem, mà tu học.

Tổ sư Đại đức của Đại thừa Giáo hạ thường khuyên dạy người phải tu từ căn bản. Căn bản là gì? Căn bản là một khái niệm, là một quan niệm. Các nhà triết học nói khái niệm này là vũ trụ quan, nhân sinh quan. Cách nhìn của chúng ta đối với nhân sinh, đối với vũ trụ nếu tương ưng với chân tướng sự thật thì trong Phật pháp gọi là tương ưng với tánh đức, đó là chánh pháp. Nếu trái nghịch với tánh đức thì pháp này là tà pháp. Nhưng chúng ta nên biết tà pháp và chánh pháp đều không rời tự tánh, thế nên nói “tà chánh không hai”. Điều này không có ở trong các tôn giáo khác, đích thực là cao hơn một tầng.

 Tà chánh trên tâm tánh là không hai, trên hiện tượng cũng là không hai. Chỉ là khác biệt về suy nghĩ, khác biệt về cảm thụ. Thế nhưng sự khác biệt này chỉ có ở phàm phu mà thôi, người mê thì có, còn người giác ngộ thì không có. Đạo lý này chúng ta nên hiểu rõ. Hiểu rõ đạo lý này rồi thì căn cứ vào đạo lý này chúng ta mới có chánh giác, rồi tiếp đến nâng cao thành chánh đẳng chánh giác. Tư tưởng của bạn thuần chánh, kiến giải đúng đắn thì hành vi của bạn tự nhiên sẽ giống như chư Phật Bồ-tát.

Tổng kết những cương lĩnh mà Phật Bồ-tát dạy bảo chúng ta, những cương lĩnh mấu chốt đó là: nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật. Như vậy tự nhiên sẽ tương ưng, sao có ác niệm, ác hạnh được chứ. Thích phô trương sức mạnh, hiếu thắng, làm hùm làm hổ, luôn nghĩ rằng mình ở trên người khác, luôn nghĩ rằng người khác đều không bằng mình. Suy nghĩ này sai rồi, hành vi biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày cũng sai rồi. Trong đoạn này, điều đó chính là “cang cường chi ác”, hai câu này chính là nói tổng quát. Tiếp theo sau là nêu các ví dụ, chúng ta từ những ví dụ này học một biết mười thì sẽ hiểu được trong cuộc sống hằng ngày chúng ta có làm sai việc nào hay không.

 Câu “Hủy hoại mùa màng của người ta”, chúng ta cho rằng mình không làm điều này, đó là phá hoại ruộng vườn của nhà nông, thế nhưng từ việc này suy luận thêm thì phàm là phá hoại những gì liên quan đến phương diện cuộc sống và thọ dụng vật chất của người khác thì đều thuộc về ý này. Do vậy bạn cần phải hiểu ý nghĩa sâu rộng của câu này. Trong thành thị, phương thức làm việc rất nhiều, có những người làm công chức cho các cơ quan chính phủ, dựa vào đồng lương để sinh sống. Ngoài những ngành nghề này ra còn có nghề kinh doanh, làm thuê, họ đều có những cách mưu sinh riêng của họ. Nếu bạn làm chướng ngại họ, phá hoại họ, khiến cho họ mất đi cơm áo, mất đi công việc, hoặc là khiến cho đãi ngộ trong công việc của họ bị giảm đi thì tất cả đều là thuộc về lỗi này.

Tiếp đến câu thứ hai là “Phá hoại hôn nhân của kẻ khác”. Ý câu này bao gồm cả việc phá hoại hòa thuận của gia đình người khác. Chư Phật Bồ-tát nhất định ủng hộ sự hòa thuận của gia đình, tương thân tương ái, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, thành tựu việc tốt của người chứ không thành tựu việc ác của người. Bất luận là tôn giáo nào đều vô cùng xem trọng gia đình. Phật pháp dạy chúng ta khoa mục căn bản để tu hành chính là “hiếu thân tôn sư”. Hầu như tất cả các vị Thánh Hiền trong các tôn giáo khi dạy người đều không ngoại lệ, đều bắt đầu dạy từ hiếu kính. Nhà Phật nói “hiếu thân tôn sư”, đã đưa hiếu thân đặt ở vị trí đầu tiên, đặt tôn sư ở vị trí thứ hai. Các tôn giáo khác đặt phụng thờ Thánh Thần ở vị trí đầu tiên, còn hiếu thân lại đặt ở vị trí thứ hai, không có tôn giáo nào là không coi trọng điều này. Đây chính là điểm khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác.

Phật pháp là sư đạo, sư đạo nhất định phải được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo, nếu không có hiếu, không có hiếu thảo cha mẹ thì sẽ không thể có sự tôn kính sư trưởng. Điều này rất hợp logic. Chúng ta thường nói là “hợp với đạo trời, hợp với lòng người”. Thế nhưng trong các tôn giáo khác thường phụng thờ một vị Thánh Thần, khẳng định vạn vật do Thần tạo ra, Thần thống trị tất cả mọi thứ, do vậy họ đặt sự kính ngưỡng Thần Thánh lên vị trí hàng đầu, hết thảy đều nương nhờ vào Thần Thánh. Điều này trong Phật pháp gọi là “pháp môn tha lực”. Sự tu hành chứng quả của Phật pháp là dựa vào tự lực, không dựa vào tha lực, duy chỉ có độc nhất trong Tịnh tông và Mật tông thì có pháp môn nhị lực. Nhị lực tức là dựa vào chính mình và dựa vào tha lực. Tuy gọi là nhị lực nhưng trong nhị lực thì vẫn lấy tự lực làm đầu. Điều này so với các tôn giáo khác thì quan niệm không tương đồng. Đó chính là bản thân phải chăm chỉ nỗ lực tu hành như lý như pháp thì mới được oai thần của Phật Bồ-tát gia trì. Nếu bản thân bạn không chịu dụng công mà muốn được oai thần của Phật Bồ-tát gia trì là không thể có. Điều này chúng ta hiện tại suy nghĩ kỹ càng thấy hợp tình hợp lý.

Bản thân chúng ta có một phần công phu thì Phật sẽ gia trì cho chúng ta một phần, chúng ta có hai phần công phu thì Phật sẽ gia trì hai phần, chúng ta có mười phần công phu thì sự gia trì của Phật sẽ là mười phần. Điều này thực sự là hợp tình, hợp lý, hợp pháp chứ không hoàn toàn dựa dẫm vào Thần Thánh. Ân huệ lớn nhất của Phật Bồ-tát đối với chúng ta chính là giáo huấn, dạy dỗ chúng ta. Ví dụ người thế gian mong cầu tài phú, Đức Phật dạy chúng ta cách thức phát tài, cũng là nói nếu bạn muốn có được tài phú thì Đức Phật dạy cho bạn đạo lý của việc đạt được và đạo lý khiến bạn không thể đạt được, tất cả đều nói rõ cho bạn nghe. Khi thông đạt rõ ràng lý luận này rồi thì trong cuộc sống thường ngày bạn mới chịu chăm chỉ nỗ lực học tập, tu phước và quả báo sẽ hiện tiền. Vì vậy có câu “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, nếu bạn muốn bội thu thì Đức Phật dạy bạn làm thế nào để gieo trồng, bạn sẽ có mùa bội thu.

Đức Phật dạy cho chúng ta chính là như vậy. Trong các tôn giáo thông thường hay nói hoàn toàn dựa vào sự ban tặng của Thánh Thần. Chỉ e là họ hiểu sai ý của Thánh Thần, kỳ thực ý nghĩa việc ban tặng của Thánh Thần cùng với ý nghĩa chân thật mà Phật pháp nói đến là tương đồng. Ở đây chỉ sợ họ hiểu sai ý nghĩa thôi, cho rằng bản thân có thể không cần chăm chỉ, hoàn toàn dựa vào sự ban tặng của Thánh Thần. Tất cả đều nương nhờ vào Thánh Thần, vậy thì đây sẽ là cuộc sống như thế nào? Là sống nhờ vào sự cứu tế qua ngày. Những nhu cầu trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đều nhờ vào sự cứu tế của người khác. Còn Đức Phật dạy chúng ta làm thế nào để sinh sống, để sản xuất. Ý nghĩa lời dạy của cổ Thánh tiên Hiền đều không sai, chỉ sợ bản thân chúng ta hiểu sai.

Chúng ta thấy rất nhiều tín đồ của nhiều tôn giáo đã hiểu sai ý của Thánh Thần, chúng ta tự quay đầu nhìn lại, trong nhà Phật cũng có rất nhiều người hiểu sai ý của Phật Bồ-tát. Nguyên nhân này ở đâu vậy? Trong đại kinh đại luận nói: “Nếu không có người giảng giải Phật pháp thì tuy có trí nhưng vẫn không thể hiểu.”. Vấn đề là ở chỗ không có người dạy học. Khi chúng ta đọc kinh thường hay dựa vào tri kiến của phàm phu, dựa vào cách nghĩ của bản thân nên thường hiểu sai, hiểu lệch ý nghĩa của kinh điển. Vì vậy Đức Phật mới nói “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải”, đạo lý là ở chỗ này.

Còn đối với sự dạy dỗ trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là những chi tiết trên phương diện sinh hoạt trong cuộc sống thì đích thực một số tôn giáo dạy rất tốt, nói rất kỹ, thí dụ như Hồi giáo. Trong Phật giáo cũng có dạy, nhưng trong Phật giáo thì Thế Tôn chủ yếu dạy giới luật và oai nghi của người xuất gia, dạy cũng rất tường tận. Nhưng hiện nay mọi người đều lơ là phương diện này rồi, không có người học nữa. Không cần nói đến những giới quá phức tạp, ngày nay đơn giản nhất như Sa Di Luật Nghi gồm mười điều giới luật, hai mươi bốn oai nghi. Ngày nay người chịu xem không nhiều, người chịu học cũng không có nữa. Cho nên ngày nay nói trên hành môn thì Phật giáo không bằng các tôn giáo khác, chúng ta không bằng Thiên Chúa giáo, không bằng Hồi giáo. Bên họ vẫn rất coi trọng về chi tiết sinh hoạt trong cuộc sống, điều này vẫn đang được phụng hành. Còn chúng ta thì ngược lại, chỉ là dựa trên kinh luận mà bàn nói đạo lý, không có thực tế.

Lần này khi hội trưởng Lý trở về từ Trung Quốc đã đem về không ít thư tịch của các tôn giáo khác. Hôm qua ông có lấy một vài cuốn đưa cho tôi xem. Tôi xem hai cuốn sách rất dày được đóng bìa cẩn thận. Đó là sách của đạo Hồi, nếu dùng tiếng Trung Quốc để nói thì là sách về “nghi lễ”, nói về quy phạm cuộc sống hằng ngày. Tôi xem thấy đoạn mở đầu là dạy bạn rửa mặt như thế nào, khi tắm thì tắm thế nào. Bạn xem, họ rất xem trọng việc giáo dục cuộc sống. Vậy chúng ta có không? Chúng ta có, không phải là không có, tuy rằng có nhưng ở trong Đại Tạng Kinh, không có người lấy ra nên đã quên hết sạch rồi. Nếu chúng ta không đưa những điều này ra để xem, nghiên cứu và để áp dụng vào cuộc sống thường ngày thì chúng ta sẽ tụt hậu so với các tôn giáo khác. Đương nhiên một số người sẽ nói những điều này là tiểu tiết, là chuyện nhỏ. Thế nhưng tiểu tiết cũng không nên bỏ qua. Nếu bỏ qua tiểu tiết sẽ dễ chướng ngại đến cái đức lớn của chính bạn. Tại sao họ có thể làm được mà chúng ta lại không làm được? Chúng ta ngày nay nên học tập, học sở trường của người khác, khắc phục nhược điểm của chính mình. Điều này nhất định phải được coi trọng.

Nhà xuất bản tôn giáo cục tôn giáo Trung Quốc quả thực những năm gần đây đã xuất bản rất nhiều sách hay, trong đó đều nhắc đến mỗi một tôn giáo. Thế nhưng tôi hiện tại đang suy nghĩ các đồng học có thể xem những tài liệu này được không? Nếu xem thì e rằng làm loạn định huệ của tất cả mọi người. Vậy thì những điều này khi nào nên học? Là học sau khi đã khai ngộ. Do vậy việc tu học của Phật pháp trước tiên yêu cầu thành tựu căn bản trí, trước tiên thành tựu giới định huệ của chính mình. Khi trí huệ đã khai ngộ rồi thì tất cả đều có thể xem, có thể tiếp xúc, thành tựu hậu đắc trí của chúng ta. Hậu đắc trí là không gì mà không biết, đối với việc tự hành hóa tha có lợi ích chân thật. Nói cách khác, hậu đắc trí là trí huệ của cuộc sống, là trí tuệ xử thế đối người tiếp vật, thế nhưng trước tiên nhất định phải có căn bản trí. Căn bản trí là gì? Căn bản trí là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Năm tâm mà chúng ta nói đến là: Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Chánh giác, Từ Bi chính là căn bản trí. Vì vậy chúng ta cần gấp rút bồi dưỡng. Điều này quan trọng hơn bất cứ thứ nào khác.

Tối hôm qua hội trưởng Lý trở về đã kể với tôi về mấy câu nói của lão hòa thượng Minh Sơn. Tôi nghe xong cũng rất buồn vì hiện tại sức khỏe của Phác Lão (lão cư sĩ Triệu Phác Sơ) không được tốt. Kể từ sau khi tôi gặp ông tại Bắc Kinh, cư sỹ Lý nói với tôi, gần đây sức khỏe của Phác Lão không có tiến triển. Chúng tôi rất lo lắng. Lão pháp sư Minh Sơn trụ trì chùa Phật Ngọc ở Thượng Hải, sau khi Giác Tỉnh pháp sư lên thay thì ông nhập viện, tuổi tác của ông đã quá cao, quá vất vả rồi. Trong bệnh viện ông đặc biệt hẹn gặp cư sỹ Lý Mộc Nguyên rồi rất cảm thán nói với ông rằng, nếu như Phác Lão mà vãng sanh thì sẽ không có Phác lão thứ hai nữa. Sau đó ông nói đến chính mình, ông đã nhiều tuổi thế này rồi mà vẫn đi khắp nơi truyền giới, bôn ba khắp nơi. Tuổi cao sinh bệnh thế này rồi thì cần nhập viện để làm gì chứ, niệm Phật cầu vãng sanh có phải tốt hơn không? Nhưng ông nói, tôi hiện giờ vẫn muốn nhập viện, hy vọng thân thể này lưu lại thêm mấy năm tại thế gian này để giúp những người hậu học. Thật là đại từ đại bi! Chúng ta thấy những vị trưởng lão này từ bi đến cực điểm, đối với chúng ta rất mực yêu thương. Chúng ta cần phải thể hội được điều này, cần chăm chỉ nỗ lực học tập, tri ân báo ân. Các vị đó thực sự đều sắp gần đất xa trời, bất cứ lúc nào đều có thể ra đi được. Các vị này trụ thế thì có sự giúp đỡ rất lớn đối với chúng ta, chúng ta đều được nương nhờ hồng phúc của các Ngài. Chúng ta có hoàn cảnh tốt để tu học, nhất định phải chăm chỉ chịu khó, phát nguyện tiếp nối huệ mạng của Phật, đảm nhận trọng trách độ hóa chúng sanh của các Ngài, chúng ta cần phát tâm.

Cảm Ứng Thiên là kinh để thực hành, kinh văn đa phần là nói về nguyên lý nguyên tắc trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Tuy không nói cụ thể chi tiết như trong Sa Di Luật Nghi hay về những quy phạm cuộc sống như trong Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, thế nhưng nếu chúng ta nắm vững những nguyên lý nguyên tắc này rồi thì đọc những quy phạm về cuộc sống sẽ rất hoan hỷ. Bạn tự nhiên sẽ ngưỡng mộ, tự nhiên muốn làm theo, không phải người khác bắt bạn làm, không phải người khác khuyên bạn đi làm mà chính bản thân bạn sẽ rất muốn làm theo. Cho nên không thể không hiểu đạo lý.

 Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta tạm dừng tại đây. A Di Đà Phật!