Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 129/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 129/195 (74A – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học, xin chào mọi người. Mời xem đoạn thứ 61 trong Cảm Ứng Thiên.

 Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê. Điền huyệt phúc sào, thương thai phá noãn” (Săn bắt chim thú; Phá lỗ hang loài vật, làm kinh động chỗ chim đậu; Lấp lỗ hang và lật úp tổ chim; Phá thai hại trứng)

Đây là đoạn thứ tư nói về tội ác sát sanh trong phần Ác báo. “Phi” là chỉ loài chim bay, “tẩu” chỉ loài thú chạy, “trập” tức là động vật [côn trùng] nhỏ bé vẫn chưa sanh ra. “Thê” tức là nghỉ ngơi, chỉ cho chim chóc nghỉ ngơi trên cây, các loài thú nghỉ ngơi trong hang động. “Thương thai phá noãn”, “thai” là chỉ các loài thú, “noãn” tức là phi cầm (chim).

Con người thời xưa sống cuộc sống du mục nên sát sanh cũng là hành vi bất đắc dĩ. Thế nên thời xưa, cổ Thánh tiên Vương khi đi săn bắt thì thường “mở lưới trống ba phía”, đây là nhân từ, tuyệt đối không phải đuổi cùng giết tận trong một lần. Cái tâm đó, hành vi đó thật quá tàn nhẫn, cho nên “mở lưới trống ba phía”.

Con người nhất định phải có tâm từ bi, nhất định không nên sát hại bất kỳ động vật nào. Chúng ta tự đặt mình vào đó mà nghĩ xem, khi người khác tổn thương chúng ta, trong tâm chúng ta có cảm nhận như thế nào? Người khác giết hại người thân của chúng ta, thậm chí là giết hại chính chúng ta, nhất định chúng ta sẽ ôm thâm thù đại hận, tâm báo thù vĩnh viễn không phai nhạt. Người học Phật đều hiểu, con người chết đi không phải là hết. Nếu chết đi là hết, vậy chuyện này dễ dàng rồi. Người hiện nay mê tín khoa học, nói người có tôn giáo tín ngưỡng là mê tín, lời nói này thật quá võ đoán. Chúng ta bình tĩnh mà tư duy thì thấy lời này nói không thông.

Phật nói với chúng ta một chân lý “nhất thiết pháp từ tâm tưởng sanh” (tất cả pháp từ tâm tưởng sanh ra). Trong lòng các vị nghĩ đến Thần thì Thần sẽ xuất hiện, trong lòng các vị nghĩ tới ma thì ma sẽ xuất hiện, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh mà! Trong tâm chúng ta có rất nhiều suy nghĩ mà chính mình không thể phát giác.

Suy nghĩ vi tế từ đâu mà có? Từ vô lượng kiếp tích lũy mà có. Phật đã nói rõ với chúng ta, A-lại-da thức giống như một cái kho vậy, ý niệm từ vô lượng vô biên kiếp đến nay của các vị đều trồng xuống hạt giống, hạt giống này gặp được duyên thì khởi hiện hành, vô cùng vi tế. Thập pháp giới từ đâu mà có? Từ tâm tưởng sanh. [Nếu] “tôi không nghĩ tưởng” thì còn có nữa không, hay là vẫn có? “Tôi không nghĩ tưởng” là cái tôi hiện tại không nghĩ, cái tôi đời này không nghĩ, vậy đời trước có nghĩ hay không?

Người hiện tại mê tín khoa học, không tin vào báo ứng của thiên địa quỷ thần. Nhưng trên thực tế ở phương Tây, những chuyện báo ứng của quỷ thần, chúng ta thường nghe, thường thấy ở trên tin tức báo chí. Họ nói chuyện này khoa học không thể lý giải. Chuyện khoa học không thể lý giải rất nhiều. Điều này cho thấy khoa học không phải là vạn năng, khoa học vẫn chưa đạt đến cảnh giới cứu cánh viên mãn. Ngày nay [khoa học] vẫn còn đang tìm tòi, vẫn còn đang suy đoán. Lĩnh vực tri thức không có bờ bến còn thành tựu của khoa học ngày nay thì có giới hạn.

Không chỉ Phật pháp mà các nhà tôn giáo khác thực sự đều có trí huệ, rất nhiều nhà tôn giáo khác cũng có công phu định ở mức độ khá cao. Mặc dù họ không giống như Thiền Tông ngồi quay mặt vào tường tọa thiền, nhưng tâm địa của họ thanh tịnh, thanh tâm quả dục, đối với danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần của thế gian vô cùng lợt lạt, người như vậy có công phu thiền định.

Định là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh có thể đột phá chướng ngại của thời gian, không gian. Trong lục đạo họ có thể nhìn thấy được cõi trời, có thể nhìn thấy được cõi ngạ quỷ, có thể nhìn thấy được địa ngục. Đó là gì? Đột phá chiều không gian. Công phu càng sâu thì mức độ đột phá càng lớn, càng sâu càng rộng, sâu rộng không biên giới. Sự thù thắng của Phật pháp, công phu định của Phật đã đạt tới chỗ rốt ráo, đột phá được chiều không gian rồi. Phật nói với chúng ta, công phu như vậy, kiến giải trí huệ như vậy, không phải chỉ mình Ngài có, Ngài không thể nào độc chiếm. Ngài nói “tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”, Phật pháp là bình đẳng. Vấn đề là tâm của các vị hiện tại đã loạn rồi, chỉ cần các vị có thể khôi phục lại sự an ổn, thanh tịnh cùng cực giống như Phật thì các vị sẽ hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cho nên Phật Bồ-tát bảo chúng ta đi chứng minh, chứng thực. Chúng ta có thể chứng thực lời Ngài nói không phải là giả. Làm thế nào chứng thực? “Diệt trừ tham sân si, siêng tu giới định huệ” thì các vị sẽ hiểu được chân tướng sự thật, hiểu được nhân quả báo ứng trong lục đạo, oan oan tương báo không bao giờ dứt.

Con người không những không được sát hại chúng sanh mà trong giới kinh còn khuyên bảo chúng ta cũng không được làm chúng sanh phiền não, dù vô ý cũng không được huống hồ là cố tình. Khởi tâm động niệm đều có báo ứng, thiện nhân cho thiện quả, ác nhân gặt ác báo. Sau khi hiểu được đạo lý này rồi tự nhiên sẽ đoạn ác tu thiện.

Con người sống trên thế gian, thời xa xưa họ hiểu được phải chọn hoàn cảnh sinh sống, môi trường sinh sống. Thế nào là môi trường tốt? Ngạn ngữ nói: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”, đây là tiêu chuẩn cho chúng ta chọn lựa môi trường sống. Nơi nào có môi trường tốt? Nhân hòa, con người nơi đây hòa ái, thiện lương, nhân từ, không làm não hại chúng sanh. Mấy năm trước tôi lần đầu đến Úc, nghe nói người Úc rất bảo vệ động thực vật. Sửa đường phải chặt cây, nhìn thấy trên cây có tổ chim thì không thể chặt cái cây này, phải đợi những chú chim non trưởng thành, bay đi rồi mới chặt, có khi phải đợi mất mấy tháng, chúng tôi nghe thấy rất cảm động. Những nơi khác chỉ xem đây là công trình công cộng, không để ý đến chuyện này. Thế nên từ chỗ này mà quan sát thì các vị biết được tấm lòng yêu thương của con người nơi đây đối với động thực vật còn như vậy, huống hồ là đối với con người? Cho nên nơi đây là môi trường sinh sống tốt. Lúc đó Quán Trưởng cùng với chúng tôi đi đến Úc tham học, sau khi xem xong bà nói đó mới thực sự là thiên đường ở nhân gian, vô cùng hâm mộ. Bà cảm thán nói, đáng tiếc là bà đã đầu tư xây đạo tràng ở Mỹ rồi.

Cho nên chúng ta chọn môi trường sống, chọn nơi ở, điều kiện thứ nhất là nhân hòa, con người nơi này vô cùng thiện lương, vô cùng hiền hòa. Tận hư không khắp pháp giới, nơi mà nhân hòa đạt mức chí thiện, chư Phật đều tán thán và giới thiệu cho chúng ta chính là thế giới Tây Phương Cực Lạc. “Chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ” (các bậc thượng thiện cùng tụ hội về một nơi), người ở Tây Phương Cực Lạc là thượng thiện, không phải là thiện thông thường. Chúng ta nếu muốn sanh đến thế giới Tây phương Cực Lạc thì chính mình nghĩ xem đã làm được thượng thiện hay chưa? Nếu như làm được thượng thiện thì nguyện thứ 18 trong 48 đại nguyện có nói là dù mười niệm, một niệm cũng nhất định vãng sanh Tịnh độ.

Nếu không phải là thượng thiện, khởi tâm động niệm vẫn là ác niệm, lời nói, việc làm vẫn là hành vi ác, tự tư tự lợi, tham sân si mạn, người như vậy cho dù một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu cũng không thể vãng sanh. Lời này không phải tôi nói, là Tổ sư Đại đức xưa đã nói, có câu “miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng cũng uổng công”. Cho nên điều kiện vãng sanh trong Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ ràng, thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm, “tam bối vãng sanh”, [điều kiện] vãng sanh ba bậc thượng trung hạ đều là nói tám chữ như nhau: “phát Bồ-đề Tâm, nhất hướng chuyên niệm”, tám chữ này chính là chí thiện.

Thế nào là Bồ-đề tâm? Bồ-đề tâm là thiện tâm chân thật. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thế Tôn có nói cho chúng ta Bồ-đề tâm là tâm chí thành, là chân thành đến cùng cực, chúng ta có phát cái tâm này hay chưa? Phải dùng tâm chân thành đối đãi với tất cả người, tất cả việc, tất cả vật, nhất định không được lừa gạt, đó là chân thành, nhất định không có chút hư dối. “Thâm tâm” là tự thọ dụng của tâm chân thành, chính là trong Kinh Kim Cang nói: lìa hết thảy tướng mới là thâm tâm. Người xưa có giải thích “hiếu đức hiếu thiện” (mến đức ưa thiện) chính là thâm tâm. Cái gì là đức? Lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là đức. Cái gì là thiện? Giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui là thiện, phải có cái tâm như vậy. Thứ ba là “hồi hướng phát nguyện tâm”, phải đem thiện tâm thiện hạnh của các vị vận dụng vào thực tế, thực làm mới là phát nguyện hồi hướng. Không có tâm Bồ-đề thì nhất hướng chuyên niệm cũng không thể vãng sanh. Điều kiện vãng sanh của các vị chỉ có một nửa, vẫn còn thiếu một nửa, các vị làm sao vãng sanh được. Nói cách khác, Bồ-đề tâm đầy đủ rồi liền quyết định tư cách vãng sanh.

Sau đó vì sao phải nhất hướng chuyên niệm? Các vị nếu không nhất hướng chuyên niệm, “tôi có tư cách rồi nhưng tôi không muốn đi”, vậy cũng không có cách gì đi được. Cho nên “phát Bồ-đề tâm” chính là điều kiện đầy đủ của các vị, “nhất hướng chuyên niệm” là tôi nguyện ý đi, các vị có đủ điều kiện lại bằng lòng đi thì đương nhiên sẽ vãng sanh.

Do đó Đại sư Ngẫu Ích trong Yếu Giải nói với chúng ta rất hay: “Có thể vãng sanh được hay không phải xem ở chỗ có tín nguyện hay không”. Tín nguyện là gì? Tín nguyện là Bồ-đề tâm, là điều kiện chân thật để vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc “phẩm vị cao thấp thì xem ở công phu niệm Phật sâu hay cạn”. Hai câu này của Ngài nói rất hay.

Người chân thật phát Bồ-đề tâm, cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì làm theo “pháp mười niệm” của Pháp sư Từ Vân Quán Đảnh dạy chúng ta là được. Sáng sớm niệm mười niệm, Pháp sư Quán Đảnh dạy một niệm là một hơi, một hơi thở không hạn chế niệm được bao nhiêu câu Phật hiệu, thời gian niệm mười hơi thở không dài. Buổi tối trước khi đi ngủ cũng tu pháp mười niệm này, người này nhất định vãng sanh. [Việc này] phù hợp với những gì dạy trong kinh điển là không gián đoạn. Ngày ngày đều làm, một ngày cũng không thiếu, như vậy là một đời không gián đoạn. Phương pháp mười niệm này tốt, thời gian ngắn, các vị khi niệm Phật “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”.

Tôi dạy cho các đồng tu pháp mười niệm là niệm mười câu Phật hiệu, còn đơn giản, dễ thọ trì hơn. Một ngày tu chín lần. Có rất nhiều đồng tu dùng phương pháp này. Phương pháp này đối với người công việc bận rộn sẽ không làm lỡ công việc của họ, hiệu quả càng thù thắng.

Những điều trên cho thấy việc phát tâm rất quan trọng, chỉ có phát tâm niệm Phật mới có thể vãng sanh. Phải đoạn ác tu thiện, phải biết được cái gì là căn bản của ác, cái gì là căn bản của thiện. Người biết tu phải tu từ căn bản, căn bản là tâm, chính là tâm thiện lương, tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, đó là chí thiện. Dùng cái tâm chí thiện này đối đãi với hết thảy người, hết thảy việc, hết thảy vật đó gọi là tu tất cả thiện.

Cho nên không những đối với động vật mà đến thực vật cũng không được làm hại. Trong giới kinh của nhà Phật nói rất rõ ràng: “tỳ- kheo thanh tịnh, không giẫm đạp lên cỏ xanh”. Cỏ mọc rất tốt mà các vị đi ngang qua giẫm đạp chúng thì các vị không nhân từ, không có tâm từ bi. Hoa nở rất đẹp, các vị ngắt xuống thì không có tâm từ bi rồi. Thế nên giới kinh nói với chúng ta khi đi đường, nếu có đường thì nhất định phải đi theo đường, không thể đi trên cỏ, trừ phi nơi đó các vị nhất định phải đi qua mà không có đường đi, vậy thì được, đây là khai duyên. Nếu như nơi này có đường, các vị lại giẫm đạp lên cỏ, vậy là các vị phá giới, các vị làm tổn thương tâm từ bi. Những giới điều nhỏ nhặt này, có mấy người nhớ đến, có mấy người tuân thủ?

Đối với cây cỏ còn yêu thương bảo vệ như vậy thì động vật làm gì có đạo lý không yêu thương bảo vệ. Hiện tại chúng ta ăn chay, đây là đại thiện, không kết oán thù với hết thảy chúng sanh. Tuy nhiên có khi ăn uống do vô tình hữu ý mà làm hại đến những sinh vật nhỏ, vẫn khiến một số động vật sanh phiền não, chúng ta ngay lập tức phải cảnh giác, đó là lỗi lầm của chúng ta. Biết sám hối, biết sửa lỗi, như vậy là tốt.