Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 35/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 35/195 (16B – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học, trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn ở đoạn “tích đức lũy công” sau cùng đã nói đến “tùy duyên tế chúng” (tùy duyên giúp người). Câu nói này nếu dùng lời hiện đại mà nói thì chính là phục vụ chúng sanh. Những việc phục vụ chúng sanh thì rất nhiều, cho nên tiên sinh Liễu Phàm nói là: “Loại ấy rất nhiều”. Nếu không xa lìa “ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”, trong Kinh Kim Cang gọi là bốn tướng: tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, mà nhiệt thành phục vụ chúng sanh thì đây là Thánh nhân của thế gian. Nếu đoạn bốn tướng này rồi, thật sự làm được vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng, phục vụ tất cả chúng sanh trong pháp giới thì đây chính là Phật Bồ-tát, là đại Thánh của xuất thế gian, đây là điều chúng ta cần phải hiểu rõ. Thánh nhân thế xuất thế gian, khác biệt là ở chỗ này.

Tiên sinh Liễu Phàm đã đưa ra mười hạng mục, cũng chính là mười cương lĩnh phục vụ chúng sanh, đã khái quát tất cả những công việc cần phục vụ. Mục thứ nhất là “làm thiện với người khác”. Khởi tâm động niệm, biết lấy thiện tâm đối xử với người, dùng thiện tâm để xử thế. Thánh nhân thế xuất thế gian đều giữ vững nguyên tắc này. Cho dù đối xử với người ác cũng dùng thiện tâm, thiện ngôn, thiện hạnh, đối xử với thù địch vẫn là thiện tâm, thiện ngôn, thiện hạnh. Vậy mới có thể xưng là Thánh. Vì sao vậy? Vì tánh người vốn là thiện. Dạy học cho trẻ thơ vào thời xưa thì đọc Tam Tự Kinh, câu đầu tiên nói “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người khi mới sanh ra vốn tánh thiện). Vì sao họ làm ác? Vì sao lại làm oan gia với chúng ta? Đây là do mê hoặc, do hiểu lầm, do bất giác mà tự chính họ không biết, còn chúng ta thì hiểu rõ. Họ dùng tâm ác, hạnh ác đối xử với ta, ta không được phép dùng tâm ác, hạnh ác đối xử lại với họ. Họ không hiểu biết đạo lý, còn chúng ta thì hiểu rõ. Nếu thường giữ thiện tâm như vậy thì hết thảy chúng sanh trong hư không khắp pháp giới không có chuyện không thể sống chung.

Người ta không thể chung sống với ta, không nên trách họ, mà phải quay trở lại phản tỉnh chính mình. Nếu bản thân không có lỗi lầm thì sao lại không thể chung sống với người khác được chứ? Có một số người không rõ tột được lý, cứ luôn đùn đẩy lỗi lầm cho người khác. Cho nên bản thân họ dù chăm chỉ tu học, tinh tấn không biếng nhác, nhưng cũng không thể chứng quả. Thậm chí là cũng không thể khai ngộ. Nguyên nhân là không thể tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, không biết lỗi lầm của chính mình ở chỗ nào. Phần trước đã nói qua, nếu muốn “tích đức lũy công”, thì cần phải bắt tay làm từ chỗ khó khắc phục nhất. Dùng thiện tâm thiện hạnh mà đối xử với người ác, đối xử với oan gia, đây là việc rất khó làm, phải bắt tay làm từ chỗ này, phải bắt đầu làm từ chỗ này, chúng ta mới thật sự là quay đầu, chân thật giác ngộ.

Mục thứ hai là: “giữ lòng kính yêu”, đặc biệt là giữa các chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, thường xuyên xảy ra hiểu lầm gây chia rẽ, tạo thành biết bao nhiêu chuyện không như ý. Nguyên nhân là do đối đãi với các tôn giáo, các chủng tộc không đồng đều như nhau, không có tâm yêu kính. Họ không biết tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là một thể, là chính mình. Không kính yêu người khác chính là không kính yêu chính mình. Nhà Phật gọi là pháp thân, pháp thân chính là tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới. Bạn học Phật, bạn phát nguyện muốn thành Phật, thành Phật nhất định phải chứng được pháp thân thanh tịnh. Bạn đối với chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, nếu có phân biệt, nếu có chấp trước thì bạn vĩnh viễn không thể chứng được pháp thân. Hay nói cách khác, bạn vĩnh viễn không thể viên thành Phật đạo. Thế chẳng phải đã hại chính mình rồi sao?

Tu hành, trước tiên phải giác ngộ. Cổ đức dạy chúng ta “tín giải hành chứng” (tin, hiểu, thực hành, chứng ngộ) bạn không có tín giải thì sự hành trì của bạn là tu mù luyện đui. Chính mình tu mù luyện đui, tự mình có biết hay không? Không biết. Tự mình cho rằng tu hành rất giỏi, còn muốn dạy người khác. Cho nên Phật ở trong kinh dạy chúng ta không nên tin vào ý của chính mình. Cũng chính là nói không nên tin vào kiến giải của chính mình, không nên tin vào tư tưởng của chính mình. Lời Phật nói là lời chân thật. Đến khi nào bạn mới có thể tin vào tư tưởng, kiến giải của chính mình? Sau khi chứng được A-la-hán thì có thể tin vào cách nghĩ, cách nhìn của mình là không sai. A-la-hán là cảnh giới gì? Đoạn kiến tư phiền não rồi. Chúng ta xem thấy ở trong Kinh Kim Cang, ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng đều không còn nữa. Không những Tứ Quả La-hán không còn bốn tướng, trong Kinh Kim Cang nói rõ ràng với chúng ta là Sơ Quả Tu-đà-hoàn đã không còn bốn tướng. Hay nói cách khác, bạn vẫn còn bốn tướng này thì cũng không chứng được Tu-đà-hoàn. Cách nghĩ, cách nhìn của bạn không phải là chính xác, là sai lầm. Đem sai lầm cho là chính xác thì chính xác vĩnh viễn lìa xa bạn rồi, vĩnh viễn không thể chứng được.

Cho nên người sơ học Phật pháp, sơ học chính là nói trước khi chứng được quả A-la-hán thì không được xa rời Phật Bồ-tát. Phật Bồ-tát giống như bảo mẫu vậy, xa rời họ thì sẽ xảy ra vấn đề, sẽ xảy ra nguy hiểm. Thậm chí là mất cả sinh mạng, ở trong Phật pháp gọi là mất đi huệ mạng. Cho nên người tu hành thời xưa, chúng ta xem thấy ở trong Cao Tăng Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Cư Sĩ Truyện, người tu hành tại gia, xuất gia không rời khỏi thiện tri thức. Có người cả đời thân cận thiện tri thức, đến khi thiện tri thức vãng sanh rồi thì mới rời khỏi, mới đi giáo hóa một phương, ý nghĩa này rất sâu rất rộng, chúng ta cần lĩnh hội thật kỹ.

Mục thứ ba là “giúp cho người khác thành tựu”, cần phải biết ta và người không hai, chúng sanh có tâm phân biệt, có tâm chấp trước, Phật Bồ-tát không có, người giác ngộ không có. Chúng ta ở Singapore giao thiệp với các tôn giáo khác, chúng ta giúp đỡ họ một cách nhiệt thành. Họ làm việc tốt, chúng ta giúp họ thành tựu. Có rất nhiều người hỏi tôi, những số tiền quyên góp cúng dường này của Phật tử chúng ta là để làm việc cho Phật giáo, vì sao Pháp sư lại đem đi giúp đỡ tôn giáo khác vậy? Tôi nói, tôi không hề giúp đỡ tôn giáo khác. Họ nói, Thầy giúp đỡ nào là Hồi Giáo, Ấn Độ Giáo, Cơ Đốc Giáo. Tôi bảo, đó đều là Phật giáo. Bạn có nghe nói ở trong pháp Đại Thừa có một câu nói là: “có pháp nào không phải là Phật pháp” hay không? Họ gật đầu, có nghe nói. Những gì Cơ Đốc giáo nói cũng là Phật pháp, Thiên Chúa giáo cũng là Phật pháp, Hồi giáo cũng là Phật pháp, không có pháp nào không phải Phật pháp, tôi không hề giúp ngoại đạo làm việc, tôi giúp Phật giáo làm việc. Bạn có loại cách nghĩ sai lầm, cách nhìn sai lầm này thì là bạn không hiểu về kinh Đại Thừa rồi. Phật dạy chúng ta phải xả bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, còn bạn thì vẫn đang giữ kiên cố vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vậy thì bạn đến ngày nào mới trở thành đệ tử Phật đây?

Tâm lượng của Phật là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (trùm khắp hư không, bao quát pháp giới), các bạn đều biết, thường xuyên đọc niệm, thường đọc trên miệng nhưng tâm lượng của mình thì vẫn là rất nhỏ bé, vẫn là không thể bao dung người. Chúng ta đã không tuân thủ lời giáo huấn của Phật-đà. Các bạn biết yêu thương động vật, yêu thương súc sanh, lẽ nào bạn đối lập với chủng tộc khác, tôn giáo khác? Chúng sanh động vật cũng là chủng tộc khác, vì sao đối với chúng thì yêu thương, còn đối với người thì không yêu thương? Việc học Phật đã đi về đâu rồi? Tụng niệm kinh đã đi về đâu rồi? Là hồ đồ đến mức độ như vậy. Phải nên giác ngộ. Mở quyển kinh ra, từng câu từng chữ suy nghĩ thật nhiều, nghĩ cho rõ ràng, nghĩ cho sáng tỏ. “Thành nhân chi mỹ” (thành tựu điều tốt đẹp cho người khác), “nhân” ở chỗ này là nghĩa rộng, bao gồm tất cả chúng sanh mười pháp giới. Hễ người ta làm việc tốt, chúng ta thấy được, nghe được thì nhất định không đố kị, nhất định không được làm tổn hại, nên phát tâm tùy hỷ công đức, tận tâm tận lực giúp đỡ họ, thành toàn cho họ chính là thành toàn cho chính mình, thành toàn cho đức hạnh của mình, thành toàn cho tánh đức của mình.

Mục thứ tư là “khuyên người khác làm lành”. Không những khuyên bằng miệng mà còn phải khuyên bằng thân. Khuyên bằng miệng là lời nói, viết thành sách, làm thành văn, cũng được xem là khuyên bằng miệng. Chính mình phải nỗ lực, làm nên tấm gương tốt là khuyên bằng thân. Phật ở trong kinh điển thường dạy chúng ta: “Thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói”. “Diễn” là biểu diễn, biểu diễn là khuyên bằng thân, phải nên làm tấm gương tốt cho người ta xem, làm mẫu mực cho người, gợi cho người ý nguyện học tập.

Mục thứ năm là “cứu người trong cơn nguy cấp”. Ý nghĩa mỗi điều ở trong đây nói đều sâu rộng vô tận, khi tai nạn hiện tiền rồi thì việc cứu giúp đã không còn kịp nữa. Cho nên cứu người nguy cấp là phải biết phòng ngừa khi chưa xảy ra. Nguy cấp sanh ra từ chỗ nào vậy? Đều là từ tạo ác nghiệp mà sanh ra. Cứu người trong cơn nguy cấp thật sự là việc quan trọng. Tức là phải dạy họ đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ thì nguy cấp mới được thật sự tiêu trừ. Nhưng bạn thử nghĩ xem, dạy người đoạn ác tu thiện mà chính mình không thể đoạn ác tu thiện thì làm sao người ta tin được chứ? Khuyên người khác chuyển mê thành ngộ mà chính mình vẫn mê hoặc điên đảo thì người ta làm sao giác ngộ được chứ?

Cho nên chư Phật Bồ-tát tất cả đều bắt đầu làm từ chính mình. Các Ngài dạy chúng ta buông xả danh văn lợi dưỡng, bản thân các Ngài thật sự làm được rồi; ba y một bát, du hóa nhân gian, chân thật làm được sáu căn thanh tịnh, một trần không nhiễm. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh này thì có cảm tưởng như thế nào? Có giác ngộ ra từ những tấm gương, hình tượng này hay không? Thật sự giác ngộ ra được thì nhất định sẽ rất hoan hỷ mà noi theo, học tập theo. Vậy là đã giác ngộ rồi. Nếu vẫn không làm được thì chưa giác ngộ. Không những không làm được mà ý niệm cũng vẫn chưa chuyển được. Việc đầu tiên là chuyển đổi ý niệm, sau đó ở trên sự tướng sẽ làm rất dễ dàng. Có một số đồng tu rất muốn học hạnh Bồ-tát, rất muốn tu Bồ-tát đạo, nhưng học thế nào cũng không giống. Nguyên nhân do đâu? Ý niệm chưa chuyển được, vẫn là một cái tâm phàm, vẫn là một cái tâm mê, vẫn sống trong tình chấp như cũ, vẫn chưa giác ngộ. Cho nên việc học theo vô cùng vất vả, vô cùng khó khăn, dễ dàng thoái chuyển, đạo lý là ở chỗ này, cũng chính vì cái nguyên nhân này.

Cho nên chư Phật Bồ-tát thị hiện, luôn lấy giảng kinh thuyết pháp làm hình tượng hàng đầu. Mục đích của giảng kinh thuyết pháp chính là giúp chúng ta phá mê khai ngộ, sau khi ngộ rồi thì việc gì cũng dễ làm. Chưa ngộ thì khó, rất khó! Cho nên Phật pháp, không những là Thiền tông, mà Giáo hạ cũng là như vậy, sau khi ngộ mới khởi tu. Chưa ngộ thì tu cái gì? Chỉ riêng Tịnh Tông là đặc biệt, Tịnh Tông là giải hành đồng thời cùng tiến. Ở trong những pháp môn khác đều là sau khi ngộ rồi mới khởi tu, không ngộ thì không có chỗ để hạ thủ. Sự thù thắng của Tịnh Tông chính là dù không ngộ cũng có thể lão thật mà niệm một câu A Di Đà Phật. Một mặt niệm Phật, một mặt cầu giác ngộ, tiến hành song song, trong vô lượng pháp môn chỉ có pháp môn này là như vậy. Cho nên gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”. Không phải nói là người niệm Phật thì không cần cầu giác ngộ, đặc biệt là người phát tâm hoằng pháp. Không giác ngộ thì lấy gì để hoằng pháp? Lấy gì để dạy người? Cho nên giác ngộ là vô cùng quan trọng. Chân thật giác ngộ thì bạn mới có thể xa lìa sự nguy cấp và mới có khả năng cứu người gặp nguy cấp.

Mười câu này chúng tôi đã giảng được một nửa, thời gian đã hết rồi. Hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.