Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Tập 32/195

THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN –  Tập 32/195 (15A – bộ 128 đĩa)

Các vị đồng học, xin chào mọi người!

Về câu “tích đức lũy công”, Vựng Biên đã trích dẫn “Phương pháp tích thiện” mà trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn đã nói. Một người tu hành, người tu hành chính là lập chí muốn làm một người tốt, tu sửa lại những hành vi không tốt. Muốn thật sự đạt đến mục tiêu này thì trước tiên phải có năng lực phân biệt rõ ràng thiện ác. Thiện thì có chân có giả, có đoan có khúc, có âm có dương. Tiếp theo dưới đây nói, còn có đúng, có sai, có lệch, ngay, có vơi, đầy. Nếu bạn nhận thức không rõ ràng, thấy ác cho là thiện, thấy thiện cho là ác, sự việc này thường hay xảy ra, rất có thể đã xảy ra ngay trên chính bản thân mình. Cả đời mình thường mong cầu đoạn ác tu thiện, nhưng trên thực tế việc mình làm lại là đoạn thiện tu ác, hoàn toàn trái nghịch.

Chúng ta thường hay thấy Đức Thế Tôn ở trong kinh luận rất cảm khái mà nói là “kẻ đáng thương xót”. Những người này thật là đáng thương, không thể phân biệt rõ ràng đúng sai, thiện ác. Lý lão sư trước đây nói càng khiến người ta tỉnh ngộ. Không những là bạn không phân biệt được tà chánh, thị phi, mà lợi hại bày ra ngay trước mắt bạn cũng không nhận ra được. Cho nên bạn tạo nghiệp, chịu báo ứng rất khổ. Không những Phật pháp nói rất rõ ràng, rất thấu triệt sự việc trong trời đất mà người thiện thế gian, Thánh Hiền của thế gian cũng đã nói không ít. Những lời mà họ nói có phải là lời chân thật không?

Từ xưa đến nay, ở thế gian này, lịch sử của Trung Quốc là tương đối hoàn chỉnh. Từ ba đời Hạ, Thương, Chu cho đến hiện nay đều có ghi chép tỉ mỉ chính xác. Chúng ta gọi nó là tín sự, nghĩa là việc có thể tin cậy được. Đặc biệt là đối với ghi chép về nhân quả báo ứng thì càng tỉ mỉ, chính xác hơn. Từ những sự thật này, chúng ta cũng chứng minh được giáo huấn của Phật Bồ-tát, cổ Thánh tiên Hiền là chân thật không hư. Trong việc luận về đúng sai của thiện ác, người xưa có tiêu chuẩn là: “Bất luận hiện hành, nhi luận lưu tế” (không bàn về hiện tại, mà bàn xem việc ấy gây nên hậu quả về sau như thế nào). Cái tầm nhìn này thật là nhìn được sâu, thấy được xa. Rốt cuộc là thiện hay ác, không phải chỉ nhìn ở bên ngoài, không phải chỉ thấy trước mắt. Hậu quả, nếu dùng cách nói hiện nay, là sự ảnh hưởng của họ đối với xã hội, đối với không gian và thời gian, phải từ chỗ này mà quan sát.

Trước mắt là việc thiện, là việc tốt, nhưng sự ảnh hưởng về sau là không tốt. Chúng ta nêu ra một thí dụ, cư sĩ Vương Long Thư hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, đó là việc tốt, có biết bao nhiêu người tán thán. Ngụy Mặc Thâm cũng hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của cư sĩ Vương thì được đưa vào Long Tạng (bộ Đại tạng kinh được khắc in vào đời vua Càn Long). Vào thời xưa, viết sách có thể được nhập vào Tạng, đó là bản hoàn thiện được mọi người công nhận. Vì sao Ấn Quang Đại sư lại phê bình nghiêm khắc ông Vương Long Thư? Đại sư nói ông đã sửa đổi chữ ở trong bản dịch gốc. Chữ mà ông đã sửa đổi rất hay, đây là thiện. Thế nhưng Ấn Quang Đại sư nói ông là ác. Ác ở chỗ nào vậy? Ấn Quang Đại sư nhìn ra được cái hại về sau, chính là sự ảnh hưởng của việc này. Vương Long Thư có thể sửa kinh, tôi cũng có thể sửa kinh, bạn cũng có thể sửa kinh. Mỗi người đều sửa một chút chỗ không hợp ý mình trong kinh điển thì kinh này lưu truyền đến đời sau đã thay đổi hoàn toàn rồi!

Sự phản đối của Ấn Quang Đại sư, không phải phản đối ông Vương Long Thư không được hội tập, hội tập hoàn toàn không bị phản đối, mà là không được sửa đổi chữ ở trong kinh. Chữ ở trong kinh tuy không hay nhưng không được sửa. Khi sửa thì sợ sẽ tạo sự ảnh hưởng. Long Thư sửa thì không có vấn đề gì, vì người ta có học vấn, có tu trì, thật sự có thể sửa được tốt. Chúng ta là người đời sau thấy ông sửa được, thế thì tôi cũng sửa được. Tôi đọc thấy câu này đọc không suông, là vì trình độ tôi chưa đủ, liền sửa cái chữ khó này thành chữ khác cho dễ đọc, cứ theo ý mà sửa, thế thì có nguy hiểm hay không? Cho nên không thể tùy tiện theo ý của mình. Tùy tiện theo ý của mình, thì sai rồi. Ngay cả như Long Thư, Ngụy Nguyên (tức Ngụy Mặc Thâm), bậc đại hiền như vậy mà Ấn Quang Đại sư còn quở trách họ, dù cho họ đối với Tịnh Độ tông quả thật là có cống hiến, có công lao.

Chính vì vậy mới có bản hội tập thứ ba của lão cư sĩ Hạ Liên Cư ra đời. Bản hội tập này tránh được lỗi lầm của các bản trước, chỉ có ưu điểm chứ không có khuyết điểm của bản hội tập trước. Cho nên mọi người gọi đó là bản hoàn thiện nhất của Kinh Vô Lượng Thọ. Bản hoàn thiện này có ưu điểm hay không? Ưu điểm rất nhiều. Mười mấy năm gần đây, phong khí niệm Phật của các đồng tu học Phật trên toàn thế giới được khơi dậy. Khơi dậy như thế nào? Do bản hội tập của Hạ lão cư sĩ đã khơi dậy. Rất nhiều người đọc bản hội tập này rồi vãng sanh có tướng lành hiếm có, chúng ta tận mắt nhìn thấy ở Singapore, ở Malaysia, chính tai tôi nghe thấy cũng rất nhiều.

Chúng ta phải từ việc hội tập kinh này mà nhìn thấy đúng sai, đây là nêu ra một sự việc rồi lấy đó mà suy ra. Trong đời sống hằng ngày, nhất định phải quan sát thật kỹ sự ảnh hưởng của những hành vi tạo tác của chúng ta đối với chung quanh, ảnh hưởng đối với xã hội, ảnh hưởng đối với đời sau, nói chung gọi là ảnh hưởng đối với lịch sử, chúng ta phải hiểu rõ những ý nghĩa này.

Nhìn xa thêm một chút, chúng ta thấy vào thời đại của Khổng Lão Phu Tử, có rất nhiều chư hầu cầm quyền trị nước không theo ý nguyện của người dân. Phu Tử chu du các nước, hy vọng có chư hầu nhận biết ngài, trọng dụng ngài, ngài có thể giúp chư hầu trị quốc bình thiên hạ. Ngài có trí huệ, ngài cũng có bản lĩnh này. Thế nhưng các chư hầu tiếp kiến ngài đều tán thán ngài, nhưng không có người nào dùng ngài. Ngài đành phải trở về nhà để dạy học. Chúng ta muốn hỏi vì sao ngài không làm một cuộc cách mạng? Vì sao không lật đổ chính quyền cũ rồi lên thay thế? Phu Tử không làm việc này. Không phải vì ngài không có năng lực, trong số 3.000 đệ tử của ngài có 72 bậc hiền tài. Chúng ta mở quyển Luận Ngữ ra thử xem, các loại nhân tài đều có. Phu Tử có thể lật đổ chính quyền cũ, hơn nữa còn là một việc tốt. Nhưng ảnh hưởng về sau là không tốt, sẽ tạo nên ảnh hưởng tiêu cực cho lịch sử. Về sau hễ ai không hài lòng đối với chính quyền thì muốn nổi lên lật đổ nó. Bạn phải biết là bao nhiêu tài sản, mạng sống của con người sẽ bị tiêu tan trong ý niệm đó của bạn, tội lỗi này nặng biết bao! Làm thỏa mãn dục vọng của một mình bạn mà để bao nhiêu người phải gặp nạn, việc này không thể làm được.

Họ cầm quyền trị nước tuy không thể hoàn toàn theo ý nguyện của người dân, nhưng vẫn chưa đến nỗi cần phải bị lật đổ. Cách mạng Thang Vũ là bất đắc dĩ, Ân Trụ Vương thật sự là quá đáng, không xem bá tánh là con người nữa, cho nên đây là điều nên làm. Một người cầm quyền chưa đến mức này thì không thể lật đổ họ. Cho nên chư Phật Bồ-tát, đại Thánh đại Hiền, đều cầu mong xã hội ổn định, thế giới hòa bình, thể chế không tốt thì cứ từ từ mà sửa đổi, như thế là hiểu được thiện ác, đúng sai. Các Ngài biết nhìn xa, trông rộng, đây là Thánh nhân. Tuy Khổng Tử là người thuộc giới bình dân, thành tựu của Ngài là dạy học, sự ảnh hưởng của Ngài là mãi đến ngày nay, hơn 2.500 năm rồi, hơn nữa còn lan rộng khắp thế giới. Ở trên thế giới ngày nay, bất kỳ một quốc gia khu vực nào, khi nhắc đến Khổng Lão Phu Tử, mọi người đều biết, đều khởi tâm tôn kính. Chúng ta thử nghĩ, Ngài đã nhìn sự việc như thế nào, xử lý sự việc ra sao. Cho nên dường như đúng mà sai, rất khó mà phân biệt, dường như thiện mà ác, cũng có dường như ác mà thiện, vẻ bề ngoài nhìn thấy là bất thiện, mà ảnh hưởng là thiện. Có thể thấy tiêu chuẩn của bậc Thánh Hiền đối với thị phi thiện ác không giống như chúng ta, chúng ta cần nên lưu ý.

Thế nào là “thiên lệch” và “chánh trực”? Trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn nêu ra một câu chuyện về Lữ Văn Ý là Tể tướng thời ấy. Khi ông nghỉ hưu trở về nhà, người trong làng đều tôn kính ông. Trong làng có một người thường hay uống rượu, khi uống say rồi thì không có lễ độ, nói năng thô lỗ, sỉ nhục Tể tướng. Tể tướng rất độ lượng, bỏ qua hết, tha thứ cho người này. Một năm sau, nghe nói người này phạm phải tội tử hình, bị giam vào trong ngục, Lữ Công cảm thấy rất áy náy. Ông nghĩ: “Nếu lúc đó người này sỉ nhục ta, ta đem người này đến cửa quan để trị tội thì người này sẽ không đến nỗi gây tội ác lớn như ngày hôm nay. Lúc ấy chỉ là một niệm tâm nhân hậu, tha thứ, bỏ qua cho người này, không biết được là người này về sau lại tạo ra lỗi lầm lớn hơn”.

Giống như trường hợp này, chúng ta trong đời sống hằng ngày cũng thường hay thấy, lỗi lầm nhỏ nếu không trừng trị họ thì dần dần sẽ nuôi thành cái ác lớn. Hơn nữa, sự ảnh hưởng này không tốt, tạo thành tiền lệ, ai cũng dám tạo ác thì xã hội này làm sao có thể an định được chứ? Cho nên Nho, Phật là sư đạo. Ngày nay chúng ta cực lực đề xướng: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học để làm chuẩn mực cho người khác, hành động để nêu gương cho đời). Tám chữ này là do Đại học Sư Phạm Bắc Kinh đề ra, tôi thấy thật là rất hay. Phải đem tám chữ này phổ biến mạnh mẽ, không chỉ giới hạn ở Bắc Kinh, chúng ta phải đem nó lưu hành đến toàn thế giới. Chúng tôi ngày ngày đang giảng, các đồng học mỗi ngày cũng đều đang nghe. Các bạn có cái nguyện vọng này hay không?

Nếu có cái nguyện vọng này là bạn đang tích đức, trong tâm bạn đã có đức hạnh chân thật rồi. Bạn có thể đem ý thức này thực hiện vào trong đời sống hằng ngày là bạn đang tích công. Tích đức lũy công là như vậy mà thành tựu. Chúng ta khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác, có thể tạo nên tấm gương tốt cho xã hội hay không? Phải giữ cái tâm này, phải hành sự như vậy mới đúng. Cho nên nhất định phải suy nghĩ, cách làm của ta có ảnh hưởng gì đối với xã hội hay không? Có những ảnh hưởng gì đối với những người học theo ở tương lai? Phải thường xuyên nghĩ đến điểm này, phía sau thiện hạnh luôn là việc ác, không thể không cảnh giác.

Có một số ác hạnh mà hậu quả về sau lại rất tốt, là việc thiện, thế nên gọi là “trong lệch có chánh”. Thiện hạnh mà về sau có ảnh hưởng bất thiện là trong chánh có lệch. Việc làm trước mắt không tốt nhưng ảnh hưởng của nó là tốt, đó chính là trong lệch có chánh. Những sự việc này nếu không có sự tu dưỡng tương đối sâu thì bạn làm sao có thể nhận ra. Hơn nữa, những sự việc này, vừa tiếp xúc là phải biết ngay, không phải sự việc qua rồi sau đó mới nghĩ ra, vậy thì không kịp rồi. Gặp phải chuyện là biết rõ, có thể quyết đoán kịp thời, đây là học vấn, đây là công phu chân thật. Hằng ngày tu tâm dưỡng tánh không đủ sâu dày nên gặp việc vẫn không tránh khỏi có lỗi lầm. Biết bao nhiêu lỗi lầm không có cách gì bù đắp được. Nhất là khi chúng ta sống trong thời đại này, thời đại không có người giảng đạo, cũng không có người giảng lý, là thời loạn thế.

Sống trong thời loạn thế, chúng ta lập chí muốn làm người tốt, làm Thánh Hiền thì thật không dễ dàng. Đây đúng là Phật ở trong kinh thường nói, nếu không có thiện căn, phước đức, nhân duyên sâu dày thì chúng ta không làm được. Mong cầu là một chuyện, còn mãn nguyện hay không lại là một chuyện khác. Thế nhưng người thật sư phát nguyện, bất luận ở trong hoàn cảnh nào cũng đều có thành tựu, chỉ cần không thoái tâm, niệm hiếu thiện hiếu đức không bị thoái chuyển, đây là nhân, duyên là ở hiếu học. Thật sự chịu hiếu học, trong Phật pháp thường nói “trong cửa Phật không bỏ một ai” bạn sẽ được Phật Bồ-tát chăm sóc. Bạn có nguyện tốt mà bạn không hiếu học thì sẽ không có thành tựu. Bạn hiếu học mà không có nguyện lớn, cũng không thể thành tựu, hạnh và nguyện hỗ trợ cho nhau, như vậy mới có thể thành tựu. Đạo lý này ở trong kinh Phật nói rất nhiều. Đại Thánh đại Hiền xưa nay, chúng ta nhìn từ bên ngoài, không có vị nào không hiếu học. Chư Phật Bồ-tát là tấm gương tốt về người hiếu học, chúng ta cần phải học tập.