LIỄU PHÀM TỨ HUẤN GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng ngày: 16-20/4/2001
Giảng tại: Đài Truyền Hình Phượng Hoàng – Thâm Quyến – Trung Quốc
Tổng cộng 20 Tập.
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Pháp Âm Tuyên Lưu
Mã AMTB: 19-016-0001 đến 19-016-0020
Liễu Phàm Tứ Huấn – Tập 1A
Chư vị đồng học, xin chào mọi người!
Hôm nay, chúng ta có thể ở trong phòng quay của đài truyền hình Phụng Hoàng cùng thảo luận với mọi người về Liễu Phàm Tứ Huấn. Vào năm tôi 26 tuổi, khi mới tiếp xúc với Phật pháp, đây là cuốn sách đầu tiên tôi đọc. Nó có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi, có thể nói là đã ảnh hưởng cả cuộc đời tôi. Tôi vô cùng yêu thích cuốn sách này, cũng thường đọc tụng, và đã từng giảng không ít lần. Hiện nay giảng so với trước đây, trên phương diện cảnh giới đương nhiên có nhiều điểm khác nhau, nhưng những gì giảng trước đây vẫn có thể làm tham khảo.
Tiên sinh Liễu Phàm họ Viên, ông tên Hoàng, hoàng trong “hồng hoàng xanh trắng đen”, tự là Khôn Nghi, đương thời ông là người huyện Ngô Giang, tỉnh Giang Nam. Ông sinh vào thời Minh Thế Tông, Thế Tông là Hoàng đế đời thứ 12 của nhà Minh, năm Gia Tĩnh thứ 14, tức năm 1.535 sau công nguyên. Như vậy, quý vị sẽ có một khái niệm tương đối rõ ràng, đại khái là cách chúng ta hiện nay hơn 500 năm. Ở sau Liễu Phàm Tứ Huấn có kèm theo một bài viết là Du Tịnh Ý Công Ngộ Táo Thần Ký, cũng là một môn học rất đáng để chúng ta học tập. Du Tịnh Ý sanh vào năm Gia Tĩnh thứ 4, lớn hơn tiên sinh Liễu Phàm 10 tuổi. Vào năm Đinh Sửu, tức là lần thứ hai tiên sinh Liễu Phàm đi thi tiến sĩ, năm đó ông 43 tuổi, còn tiên sinh Du Tịnh Ý 53 tuổi, hai người họ là cùng khoa thi. Du Tịnh Ý thi đậu, tiên sinh Liễu Phàm thi không đậu. Mãi cho đến năm Bính Tuất, tiên sinh Liễu Phàm 52 tuổi mới thi đỗ tiến sĩ. Chúng ta quan sát từ trong truyện ký sẽ thấy được, việc cả đời ông sửa sai đổi mới cũng tương đối gian khổ, không phải là chuyện đơn giản. Đặc biệt là thời gian đầu, 20 năm đầu rất gian nan; đến lúc về già, công phu thuần thục rồi nên việc đoạn ác tu thiện càng ngày càng dễ dàng hơn. Chúng ta xem nội dung:
Khi tôi còn nhỏ cha đã qua đời.
“Tôi” là tiên sinh Liễu Phàm tự xưng, “đồng niên” là lúc còn nhỏ. Căn cứ theo “học thuyết lập mạng”, chúng ta biết ông chắc chắn mất cha trước năm 15 tuổi. Làm sao biết được? Vì lúc ông gặp Khổng tiên sinh là năm 15 tuổi, bởi vậy chắc chắn là trước năm 15 tuổi.
Mẹ tôi bảo tôi từ bỏ con đường công danh khoa cử để theo học nghề y.
“Cử nghiệp” nghĩa là đọc sách cầu lấy công danh. Mẹ ông nói với ông, không nhất định phải đọc sách cầu công danh nữa, mà khuyên ông học nghề y.
Học y có thể duy trì cuộc sống, lại có thể cứu giúp người khác.
Học y có lợi ích, có thể tự nuôi thân, cũng có thể cứu giúp những người
bệnh khổ.
Hơn nữa, nếu có thể tinh thông y thuật thì sẽ trở thành danh y nổi tiếng. Đó là tâm nguyện trước đây của cha con.
Nếu con thật sự học tốt nghề y thì tương lai có thể trở thành danh y, đây là nguyện vọng của cha con đối với con.
Sau đó ở chùa Từ Vân, tôi gặp một ông lão tướng mạo phi phàm, râu dài phất phới, phong thái nhẹ nhàng như tiên ông. Tôi cung kính hành lễ với ông.
Sau đó, “hậu” là năm ông 15 tuổi, tức là năm 1.549 sau công nguyên, tại chùa Từ Vân ông gặp một cụ già. “Tu nhiêm vĩ mạo”, “tu nhiêm” là râu dài phất phới, tướng mạo phi phàm. Nhìn thấy phong thái nhẹ nhàng như tiên ông, không giống như người phàm, sau khi ông nhìn thấy thì rất kính lễ đối với người này. Do đây có thể biết, tiên sinh Liễu Phàm từ nhỏ được dạy bảo rất tốt. Tuy còn rất trẻ, mới 15 tuổi nhưng rất hiểu quy củ xử sự đối nhân tiếp vật, vậy mới có thể khiến người hoan hỷ, khiến người quý mến.
Ông lão nói với tôi.
Cụ già này nói với ông.
Cậu là người trong quan trường.
Ông lão này hình như biết xem tướng, vừa gặp liền nói, cậu có số làm quan.
Năm sau sẽ thi đỗ tú tài.
“Tấn học” tức là sang năm cậu sẽ thi đậu tú tài.
Vì sao không đọc sách.
Vì sao cậu không đọc sách? Vì sao cậu không lo đọc sách mà đi dạo khắp nơi ở bên ngoài vậy?
Tôi liền nói rõ nguyên nhân.
Ông liền [kể rõ chuyện] mẹ ông dạy ông đừng đọc sách nữa, [mà chuyển sang] học y. Ông đi khắp nơi ở bên ngoài, có thể là đi hái thuốc. Bởi vì 15 tuổi học y, vậy nhất định là học nghề, hoặc là đi theo đại phu, hoặc là học nghề trong tiệm thuốc. Điều này chúng ta đều có thể tưởng tượng được. Cho nên, ông đem ngọn nguồn nói với vị đạo trưởng này.
Và hỏi tên họ của ông, nhà ở đâu.
Ông thỉnh giáo quý tánh của ông cụ này, từ đâu đến?
Ông lão trả lời rằng: “Ta họ Khổng, người Vân Nam”.
Ông nói với Liễu Phàm, ông họ Khổng, người Vân Nam.
Ta được chân truyền thuật Hoàng Cực Số của tiên sinh Triệu Khang Tiết.
Hoàng Cực Số Chánh Truyền của Thiệu Khang Tiết, hiện nay được thu thập trong Tứ Khố Toàn Thư. Tôi từng mở ra xem, nói thật là xem không hiểu, sách này hoàn toàn thuộc về toán học cao cấp. Trong sách này không những có thể nói về vận mệnh của một người, mà còn nói đến vận mệnh của quốc gia, vận mệnh của thế giới, hoàn toàn đoán định theo quẻ số trong Kinh Dịch.
Theo số mạng thì ta nên truyền lại cho cậu.
Từ trên định số mà nói, thì tôi nên truyền cho cậu. Bạn xem vị đạo trưởng này lần đầu tiên gặp Liễu Phàm, làm sao biết có thể truyền cho ông? Trong này chắc chắn có học vấn lớn, loại học vấn này rất giống với phương pháp truyền đạo của tổ sư đại đức trong Tông môn, Giáo hạ của nhà Phật.
Tôi liền mời ông lão ấy về nhà, đem mọi việc trình lên với mẹ.
Tiên sinh Liễu Phàm đưa cụ già ấy về nhà gặp mẹ ông, và trình bày với mẹ.
Mẹ nói: “Phải tiếp đãi ông chu đáo, rồi mời ông đoán mạng cho con thử xem”, những việc rất nhỏ ông đoán đều chính xác.
Người mẹ bảo: Hãy tiếp đãi ông thật tốt, thử xem ông có đoán đúng hay không? Kết quả vừa thử, quả nhiên ông bói rất chính xác.
Tôi bèn khởi lên ý niệm muốn đọc sách.
Từ chỗ này, Liễu Phàm đối với những lời đạo trưởng đoán cho ông, ông đã có niềm tin, ông lại sanh khởi ý niệm muốn đọc sách.
Tôi thương lượng với anh họ tên là Thẩm Xứng.
Ông thương lượng với anh họ của mình, anh họ nói:
Anh bảo: “Tiên sinh Uất Hải Cốc ở nhà Thẩm Hữu Phu dạy tư thục, anh đưa em đến trọ học ở đó sẽ rất thuận tiện”. Do vậy, tôi lạy tiên sinh Uất Hải Cốc làm thầy.
Anh họ đưa ông đến chỗ của tiên sinh Uất Hải Cốc, Uất Hải Cốc ở đó dạy tư thục. “Khai quán” chính là dạy tư thục. Người anh họ gửi Liễu Phàm đến đó học nội trú. Tiên sinh Liễu Phàm bèn lạy tiên sinh Uất Hải Cốc làm thầy.
Khổng tiên sinh đoán mạng cho tôi khi thi huyện đứng thứ 14, thi phủ đứng thứ 71, thi đề học đứng thứ 9.
Khổng tiên sinh xem cho Liễu Phàm, ông nói: Sang năm cậu lên huyện thi tú tài, thi huyện đứng thứ 14, thi phủ đứng thứ 71, thi đề học đứng thứ 9, “đề học” là thi tỉnh. Lúc đó thi tú tài phải thông qua ba cửa này. Sang năm đi thi, sang năm là 16 tuổi, năm 16 tuổi đi thi quả nhiên thi đậu, hơn nữa thứ hạng hoàn toàn phù hợp.
Sang năm đi thi thứ tự ở ba nơi đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán.
Có thể thấy tài bói toán của Khổng tiên sinh không tệ, rất cao minh. Ông không phải là hàng thuật sĩ giang hồ, mà là một chuyên gia thuật số thật sự tài giỏi, người ta thường gọi là chuyên gia đoán mạng. Ông có tài thật sự, không phải giả.
Lại đoán cát hung họa phước cả đời cho tôi.
Đã linh nghiệm như vậy, thì mời ông xem giùm lành dữ họa phước trong đời mình.
Ông nói năm nào sẽ thi đỗ hạng mấy, năm nào sẽ được chọn làm lẫm sinh.
“Lẫm” cũng là một cấp bậc trong tú tài, tương đương với học sinh được nhận học bổng hiện nay. Lẫm là nhận lương thực, nó có số người nhất định, cần phải có chỗ trống, chức vụ còn bỏ trống, thi đậu tú tài vị trí cao nhất, mới được bổ sung dần vào, đây gọi là bổ lẫm.
Năm nào sẽ được chọn làm cống sinh.
Cống sinh lại cao hơn lẫm sinh một bậc, nhưng vẫn là tú tài. Trong tú tài phân chia rất nhiều cấp bậc, cống sinh là cao nhất, lẫm sinh thứ nhì.
Sau khi xuất cống, đến năm đó sẽ được chọn làm huyện trưởng tỉnh Tứ Xuyên.
Sau khi ông làm cống sinh, đến năm đó thì cống sinh đã đủ tư cách vào học ở thái học. Cho nên lúc đó sẽ học trong thái học, thái học là trường đại học do quốc gia thành lập, Thời xưa chỉ có một trường, gọi là Quốc tử giám. Thái học đều thành lập ở thủ đô, thành lập ở kinh thành. Thời nhà Minh có hai trường Quốc tử giám, vì sao vậy? Khi Minh Thái Tổ xây dựng đất nước thì đóng đô tại Nam Kinh, vì thế Nam Kinh có Quốc tử giám. Về sau đến thời Thành Tổ, vua Thành Tổ dời đô đến Bắc Kinh, cho nên Bắc Kinh cũng có Quốc tử giám. Như vậy đất nước thời nhà Minh trở thành có hai trường đại học, thường thức này chúng ta cần phải biết. Cống sinh trở lên mới có tư cách vào học trong Quốc tử giám. Đây là đến năm nào đó sau khi xuất cống sinh, cậu sẽ được tuyển làm huyện trưởng ở Tứ Xuyên, “đại doãn” là huyện trưởng.
Cậu nhận chức huyện trưởng 3 năm rưỡi thì sẽ từ chức về quê.
Ông nhận chức 3 năm rưỡi thì phải cáo lão hồi hương. Vì sao vậy?
Vào giờ Sửu, ngày 14 tháng 8, năm 53 tuổi.
Xem một cách rất chuẩn xác.
Sẽ mất tại nhà.
Ông sẽ mất tại nhà, thọ mạng của ông đã hết rồi.
Đáng tiếc cậu không có con trai.
Trong mạng của ông không có con trai.
Tôi ghi chép từng điều lại, và nhớ kỹ trong tâm.
“Bị lục” nghĩa là từng việc, từng việc mà Khổng tiên sinh nói ông đều ghi chép lại. Đây là thời vận trong suốt cuộc đời của ông.
Từ đó về sau, hễ đến kỳ thi, thứ hạng thi trước sau đều đúng như dự đoán của Khổng tiên sinh.
“Huyền” nghĩa là ông đã đoán chắc. Về sau, mỗi năm đọc sách thi cử, vị thứ đều đúng như Khổng tiên sinh dự đoán, không sai chút nào. Trong này có xen vào một việc là:
Chỉ có một lần, Khổng tiên sinh đoán tôi khi làm lẫm sinh phải nhận đủ 91 thạch 5 đấu gạo thì mới được lên cống sinh.
Tức khi ông làm lẫm sinh, ông lãnh lương thực của quốc gia, quốc gia phân phối lương thực cho ông, như ngày nay chúng ta gọi là học sinh được nhận học bổng. Ông sẽ được nhận bao nhiêu gạo? Được nhận 91 thạch 5 đấu thì ông liền xuất cống. Hay nói cách khác, ông từ lẫm sinh thăng lên cống sinh.
Nhưng khi tôi nhận được hơn 70 thạch gạo thì Tôn sư họ Đồ liền phê chuẩn cho tôi làm cống sinh, nên trong tâm tôi có chút hoài nghi về sự tiên đoán của Khổng tiên sinh.
Lúc Khổng tiên sinh xem cho Liễu Phàm đã nói ông nhận được 91 thạch 5 đấu thì mới có thể xuất cống, nhưng khi ông nhận được hơn 70 thạch gạo thì lúc này Đồ tôn sư, “Tôn sư” nghĩa là Đề học đương thời, quản lý giáo dục của một tỉnh, tương đương với trưởng phòng giáo dục hiện nay. Ông được phê chuẩn bổ cống sinh, bổ cống sinh nghĩa là xuất cống. Trong lòng ông thấy nghi hoặc, vì sao điều này không đúng? Khổng tiên sinh đoán sai việc này rồi.
Sau đó, quả nhiên bị vị quan thay quyền họ Dương bác bỏ.
Đồ tôn sư phê chuẩn bổ cống, văn kiện đưa lên nhưng bị quan thay quyền, “thự ấn” là thay quyền, bị ông Dương đang thay quyền gạt bỏ, không chấp nhận Liễu Phàm bổ cống.
Mãi đến năm Đinh Mão.
Năm Đinh Mão là năm đầu tiên Minh Mục Tông Càn Khánh lên ngôi, lúc này tiên sinh Liễu Phàm 33 tuổi. Chư vị nghĩ thử xem, 16 tuổi ông thi đậu tú tài, mãi đến 33 tuổi mới làm cống sinh, mười mấy năm, thời gian dài như vậy. Mãi đến năm Đinh Mão.
Tôn sư Ân Thu Minh thấy bài thi dự bị của tôi trong trường thi thì cảm thán rằng: “Năm bài sách luận trong bài thi này giống như năm bản tấu chương dâng lên Hoàng thượng vậy”.
Lúc này đốc học, tức là tiên sinh Ân Thu Minh là vị quan quản lý giáo học. Trong lúc rảnh rỗi, ông đem những bài thi của các tú tài trước đây, lấy những bài thi bị đánh rớt ra xem lại từ đầu. Đột nhiên thấy bài thi của tiên sinh Liễu Phàm viết rất hay, cho nên liền cảm thán nói rằng: Ông viết năm bài văn này giống như năm bài tấu chương vậy. Kiến giải và chữ nghĩa của ông đều rất hay, có thể sánh với tấu chương của các vị đại thần dâng lên Hoàng đế.
Làm sao có thể chôn vùi tài năng của một Nho sinh có học vấn uyên bác, thâm sâu như vậy được?
“Bác” là nói ông có hiểu biết sâu rộng, học thức rất phong phú. “Hợp” là nói ông hiểu về lý luận rất thấu triệt. “Yêm” tức là nghĩa văn của ông rất thấu đáo, công phu toàn diện, văn chương như thế rất khó gặp được. Ông nói không thể để người có học vấn, có đức hạnh, có năng lực như vậy bị chôn vùi đến già, suốt đời làm một tú tài nghèo được.
Bèn chiếu theo công văn trình lên huyện lần trước phê chuẩn cho tôi được bổ cống.
Lại một lần nữa xin cho Liễu Phàm được bổ cống, lần này đã được phê chuẩn.
Lúc ấy, cộng cả số gạo đã ăn trước đây quả nhiên là 91 thạch 5 đấu.
Khổng tiên sinh đoán không sai chút nào, đích thực ông làm lẫm sinh, nhận đủ 91 thạch năm đấu gạo thì mới có thể xuất cống.
Từ việc đó tôi càng tin chắc rằng sự thăng trầm của một người đều đã được định sẵn trong mạng, mọi việc nhanh hay chậm đều có thời gian nhất định, nên đối với mọi việc tôi rất bình thản, không mong cầu gì nữa.
Đến lúc này ông hoàn toàn khẳng định, tin rằng con người đều có vận mệnh, vận mệnh chậm hay nhanh đều có thời gian, không thể cưỡng cầu. Do đó tâm ông định lại, không có vọng niệm, thật sự làm được “không tranh với người, không cầu nơi đời”. Cho nên tôi nói, người như vậy gọi là phàm phu tiêu chuẩn. Chúng ta làm phàm phu đều không chuẩn, từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, vọng cầu khắp nơi nhưng không cầu được. Số mạng có thì cuối cùng sẽ có, số mạng không thì đừng có vọng cầu, làm sao mà cầu được?
Sau khi làm cống sinh tôi đến Bắc Kinh.
Sau khi làm cống sinh thì ông đến Yên Đô, đến Bắc Kinh, đến Bắc Kinh đương nhiên là có thể muốn xem thử trường đại học quốc gia ở đó. Tôi nghĩ ông nhất định sẽ đến hai trường đại học để tìm hiểu một chút, xem rốt cuộc nên chọn học ở đâu,điều này chúng ta có thể tưởng tượng được.
Tôi ở lại kinh đô 1 năm, suốt ngày tĩnh tọa, hết thảy kinh sách đều không xem.
Vì sao vậy? Bởi vì cuộc đời đều có số mạng, nghĩ gì đi nữa cũng chỉ phí công, cho nên không khởi vọng niệm nữa. Nói thực, ông bị vận mệnh trói buộc, không còn cách nào khác. Chúng ta thấy tình hình này của tiên sinh Liễu Phàm đáng được thông cảm, cũng rất đáng thương.
Năm Kỷ Tỵ trở về.
Kỷ Tỵ là năm sau, năm sau ông từ Bắc Kinh trở về phương Nam.
Vào học trong Quốc tử giám ở Nam Kinh.
Lúc này tiên sinh Liễu Phàm 35 tuổi, “Nam Ung” là Quốc tử giám của Nam Kinh. Có thể thấy ông đã tìm hiểu rất rõ ràng, ông chọn trường đại học ở Nam Kinh, muốn đến trường này học.
Lúc chưa vào học.
Là còn chưa đi học, trước khi vào học.
Trước tiên, tôi đi thăm hỏi thiền sư Vân Cốc.
Lúc chưa vào học, nghe nói trên núi Thê Hà, núi Thê Hà ở Nam Kinh. Hiện nay Nam Kinh có ngôi chùa Thê Hà, ông đến núi Thê Hà thăm thiền sư Vân Cốc.Vân Cốc là hiệu của đại sư, pháp danh của ngài là Pháp Hội, cho nên ở đây gọi ngài là “Hội Thiền sư”, đây là tôn xưng ngài. Thiền sư Vân Cốc là một bậc đại đức, một vị cao tăng trong Phật giáo đương thời. Lúc này thiền sư Vân Cốc đã 69 tuổi, tiên sinh Liễu Phàm 35 tuổi, thiền sư lớn hơn Liễu Phàm 34 tuổi. Liễu Phàm đi gặp thiền sư năm 35 tuổi, đây cũng là lần gặp đầu tiên.