SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC GIẢNG GIẢI
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng năm 1994
Giảng tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán (Thư viện Hoa Tạng)
Tổng cộng 5 Tập (AMTB),
Cẩn dịch: Bửu Quang Tự Đệ tử NHƯ HÒA
Giảo chánh, nhuận sắc: Minh Tiến & Huệ Trang
Mã AMTB: 11-002-0001…0005
Hiện tại bài giảng này chưa khôngcó video và Audio. Ban biên tập sẽ cập nhật ngay khi có. Vui lòng liên hệ amtb@amtbvn.org để thêm chi tiết.
SA DI LUẬT NGHI YẾU LƯỢC – PHẦN 3
Xin xem đoạn mười thuộc trang chín. Câu cuối cùng trong phần chú giải cho đoạn chín chính là một câu nói của Đàm Nhất[1] luật sư: “Tam thế Phật pháp, Giới vi căn bản, bản chi bất tu, đạo viễn hồ tai” (Giới là căn bản, không tu cái gốc thì xa cách đạo lắm thay). Câu này rất quan trọng. Trong cả một đời này, chúng ta thường nghe nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” (Thân người khó được, Phật pháp khó nghe). Được thân người, nghe Phật pháp, quả thật chẳng dễ dàng, quả thật là may mắn lớn lao. Trong kinh thường nói đến điều này, như bài kệ Khai Kinh có câu: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ!), cổ đức nói: “Vô lượng kiếp lai hy hữu nan phùng đích nhân duyên” (Nhân duyên hy hữu khó gặp được từ vô lượng kiếp đến nay). Những câu nói ấy không giả chút nào hết! Nhưng mọi người thường rất hờ hững, rất vô tâm bỏ lỡ qua, không để ý đến! Nói cách khác, hoàn toàn chẳng thể nghiệm tánh chân xác, tánh trọng yếu của những câu nói này. Nếu ai thật sự hiểu rõ, người ấy nhất định quý tiếc cuộc đời này vô cùng, cuộc đời này cũng là một cơ duyên, cơ hội cho chúng ta phá mê khai ngộ, liễu sanh thoát tử. Chúng ta gặp được cơ hội thì phải làm sao mới có thể vượt thoát luân hồi lục đạo, thật sự liễu sanh thoát tử? Nhất định phải y giáo phụng hành! Nếu tự cậy mình thông minh, tự mình muốn làm theo một cách [riêng] thì uổng phí công phu, mà cũng là kẻ cuồng vọng, ngu si như người xưa đã nói! Không thể tin tưởng, đấy là ngu si! [Tuy] tin tưởng nhưng ỷ mình thông minh, muốn làm theo cách khác, đấy là cuồng vọng! Hai điều ấy đều là nguyên nhân gây nên thất bại.
Mấy câu nói này của Đàm Nhất luật sư hết sức hay: “Tam thế chư Phật” là quá khứ, hiện tại, vị lai. “Giới vi căn bản” (Giới là căn bản): Giới ở đây được dùng theo nghĩa rộng, không phải là [hiểu theo] nghĩa hẹp, nhất định phải hiểu cho rõ ràng! Theo nghĩa rộng, điều quan trọng nhất là phải tuân thủ lời thầy dạy răn, đó chính là cái mà xưa kia chúng ta gọi là “sư thừa”. Học như thế nào? Mới học, nhất định phải học theo một người thì quý vị mới có thành tựu, đấy gọi là “học theo một nhà”. Vừa bắt đầu liền học rất nhiều mà nghiễm nhiên có thành tựu thì những người thành tựu ấy đều là thiên tài, là bậc tái lai, chắc chắn không phải là phàm phu. Xem trong lịch sử, chúng ta thấy người vừa bắt đầu bèn học rộng nghe nhiều, được thành tựu thì trong lịch sử có lẽ chỉ có một mình Vĩnh Gia thiền sư. Vĩnh Gia là thiên tài, vừa bắt đầu Ngài đã nghe rất nhiều pháp sư giảng kinh thuyết pháp. Trước ngài Vĩnh Gia, sau ngài Vĩnh Gia, chúng ta đều chưa từng thấy [có ai được như vậy]. Ngài đúng là một bậc thiên tài. Ngài đến gặp Lục Tổ, Lục Tổ ấn chứng cho Ngài, vấn đề được giải quyết ngay khi ấy. Được ấn chứng rồi, Ngài bèn muốn đi ngay, Lục Tổ giữ ở lại một đêm, bảo Ngài: “Vì sao ông đi lẹ như thế? Hãy ở lại một đêm!” Do đó, Ngài bèn ở lại Tào Khê một đêm, đấy chính là câu chuyện “nhất túc giác” (một đêm giác ngộ) rất nổi tiếng của Thiền Tông. Vị này là bậc tái lai, là thiên tài, chúng ta không thể học theo được, chúng ta không phải là thân phận ấy, không có tư cách đó. Vì thế, nhất định phải thật thà học theo một người, học theo lời dạy của một nhà mà thôi!
Hiện thời, khó gặp được thiện tri thức, chúng ta học với ai? Ai là thiện tri thức chân chánh? Ai có năng lực chỉ dạy chúng ta? Trong tâm chúng ta khâm phục ai? Nếu chẳng phải là người trong lòng chúng ta ngưỡng mộ nhất, dù người ấy đã thành Phật rồi hay là bậc tái lai thì quý vị theo người ấy suốt đời cũng vô dụng! Người ấy cái gì cũng không thông, đạo đức, học vấn đều không có, nhưng quý vị hết sức tôn trọng người ấy, hết sức kính ngưỡng thì quý vị học với người ấy sẽ được thành tựu. Do đây, biết được rằng: Trong sự thành tựu tu học của một người thì thầy dạy là thứ yếu, quan trọng nhất là thái độ tu học của chính mình, có thể thành tựu hay không là do chính mình quyết định.
Trong kinh Phật cũng có câu chuyện nhỏ thế này. Đây cũng là chuyện thật xảy ra tại Cổ Ấn Độ: Có một vị xuất gia muốn cầu đắc quả A La Hán, có một vị xuất gia khác biết được, bỡn cợt bảo ông ta: “Tôi có thể truyền pháp cho ông. Tôi truyền cho ông thì ông phải lo rượu ngon, thức ăn ngon để cúng dường tôi!” Vị xuất gia ấy thật sự đem y bát, hành lý bán sạch hết, chuẩn bị rượu ngon, những món thức ăn ngon để cúng dường người kia, mời ông ta xơi. Ăn uống xong, vị pháp sư cợt nhả ngồi trong phòng, kêu vị kia ngồi xổm trong một góc phòng, cầm trái banh da ném vào đầu, kêu: “Ông chứng quả Tu Đà Hoàn rồi!” Chọc ghẹo vị ấy như vậy, vừa ném vị ấy thì Ngài bèn thật sự chứng đắc! Được! Lại đổi sang góc khác, lại ném banh vào Ngài lần nữa, nói: “Ông chứng đắc Nhị Quả rồi!” Ném banh cả bốn góc xong, nói: “Ông chứng đắc A La Hán rồi!” Vị xuất gia kia lập tức dập đầu, cảm tạ ân đức pháp sư. Vị pháp sư đùa cợt bảo: “Tôi giỡn chơi với ông thôi mà!” Vị xuất gia kia nói: “Tôi thật sự chứng đắc rồi!”
Nguyên nhân nào vậy? Tổ Ấn Quang giảng: “Thập phần cung kính đắc thập phần lợi ích” (Mười phần cung kính được mười phần lợi ích). Do vậy, thành tựu của một cá nhân là do sự chân thành của chính mình, không chút dính dáng gì đến thầy cả! Tục ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Có học trò Trạng Nguyên, chứ không nghe nói có thầy của Trạng Nguyên”. Thầy là Tú Tài, học trò đậu Trạng Nguyên, đó gọi là “thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (màu xanh phát xuất từ chất chàm, nhưng lại trội hơn chất chàm). Chướng ngại lớn nhất cho đạo và học là gì? Chính là tâm khinh mạn, không cung kính. Chư Phật Như Lai ở nơi đây, quý vị không tin tưởng các Ngài, xem thường, không tôn trọng thì quý vị đều không đạt được! Quý vị tôn trọng kẻ ngu, kẻ ác thì quý vị sẽ thành tựu đạo nghiệp trong tay họ.
Như vậy thì thiện tri thức ở chỗ nào? Thiện tri thức phải cầu từ lòng chân thành, cung kính của chính mình, hết thảy mọi người đều là thiện tri thức. Năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm đã chỉ ra rõ ràng cho chúng ta. Trong năm mươi ba lần tham học ấy, trên thực tế là dạy chúng ta đối với các nghề nghiệp, nam – nữ – già – trẻ trong xã hội, nếu quý vị dùng lòng chân thành, cung kính cầu pháp để tiếp xúc họ thì đều có thể tăng cao địa vị Bồ Tát của chính mình. Quý vị xem năm mươi ba vị ấy là những người như thế nào? Trong số đó có ngoại đạo, ngày nay chúng ta nghe nói đến ngoại đạo bèn xem thường, khinh rẻ, lầm rồi! Phật pháp tu điều gì? Tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu tâm chân thành. Năm mươi ba lần tham học dạy chúng ta “trải qua sự việc để luyện tâm”, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được, thiện duyên cũng tốt, ác duyên cũng xong, chúng ta tu hành tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng từ trong ấy, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.
Do vậy, cảnh giới thiện – ác, cảnh duyên thiện – ác không gì chẳng phải là thiện tri thức, tâm của chính chúng ta thanh tịnh rồi, bình đẳng rồi thì tất cả hết thảy mọi người, cảnh giới thiện – ác đều là cảnh giới Phật. Trong mắt Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật; trong mắt phàm phu thấy hết thảy Phật, Bồ Tát đều là phàm phu. Đấy là sự thật! Chúng ta tạc hình tượng Phật, Bồ Tát; người không học Phật đối với những hình tượng ấy chẳng có chút cung kính nào, coi đó là những ngẫu tượng bằng đất nặn, gỗ khắc. Do vậy, trong mắt phàm phu, Phật, Bồ Tát đều là phàm phu, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật. Khi nào quý vị thành Phật? Lúc nào quý vị thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, quý vị bèn thành Phật! Thấy hết thảy chúng sanh tâm đều thanh tịnh, tâm người lành thanh tịnh, tâm kẻ ác cũng thanh tịnh, không có gì không thanh tịnh thì quý vị đã thanh tịnh được cái tâm rồi! Tu hành thì phải tu ở chỗ này.
Ở đây nói “Giới là căn bản”, Giới ở đây là nghĩa rộng, không phải nghĩa hẹp, nhất định phải tuân thủ lời răn dạy của thầy, tuân thủ phương pháp của thầy. Nếu thầy thật sự có trí huệ, có thiện xảo, có hiểu biết, ông ta cũng sẽ không bó buộc, đòi hỏi quý vị vô lý, không bao giờ có chuyện đó! Thời xưa, thầy ước thúc học trò theo nguyên tắc chung là năm năm, nhưng năm năm cũng không phải là nhất định, có thể dài hơn hay ngắn hơn, hoàn toàn tùy thuộc vào sự thành tựu trong tu học của học trò. Học trò căn cơ nhạy bén thì thời gian rút ngắn lại, chẳng hạn như Vĩnh Gia thiền sư tôi mới vừa nhắc đến đó. Vĩnh Gia thiền sư chỉ cần một ngày, không cần đến năm năm. Lục Tổ đại sư cũng có rất nhiều học trò theo Ngài học suốt ba mươi năm. Quý vị đọc Đàn Kinh thấy có những vị ba mươi năm chẳng lìa thầy, họ cũng chưa chắc là độn căn, có những vị tuy đã được khai ngộ, nhưng vì báo đáp ân đức thầy, chẳng muốn rời khỏi thầy, tình hình ấy cũng có. Đương nhiên có vị căn khí chậm lụt hơn nên theo thầy trong một thời gian khá dài. Do vậy, năm năm ấy hoàn toàn không phải là một tiêu chuẩn cố định, thời gian có thể kéo dài hay có thể rút ngắn, hoàn toàn tùy thuộc vào thành tựu. Nói cách khác, chưa thành tựu thì chẳng được rời khỏi thầy, thành tựu rồi thì có thể tách lìa thầy lúc nào cũng được!
Như thế nào mới được coi là thành tựu? Trong Thiền Tông là “minh tâm kiến tánh”, đó mới tính là thành tựu, trong Giáo Hạ là “đại khai viên giải”, đó mới kể là thành tựu; trong pháp môn Tịnh Độ là “nhất tâm bất loạn”, đấy mới kể là thành tựu. Nói một cách nghiêm ngặt, tiêu chuẩn này của Tịnh Độ là thấp nhất, vì theo tiêu chuẩn của Thiền và Giáo đều cần phải đoạn phiền não, phải phá một phẩm vô minh mới tính là thành tựu được, chứng đắc Tứ Quả La Hán đều không tính là thành tựu. Quý vị thấy trong kinh điển của đức Phật, Thường Tùy Chúng (những vị thánh giả thường theo đức Phật) của Phật là một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị, đều đã chứng được quả A La Hán, nhưng vẫn chẳng thể lìa khỏi thầy, vì sao vậy? Chưa kiến tánh! A La Hán chỉ là thành tựu Cửu Thứ Đệ Định[2], đoạn Kiến Tư phiền não chứ chưa đoạn hết Trần Sa phiền não, Vô Minh chưa phá được, không thể thành tựu, nên phải theo thầy. Trong số các đệ tử Bồ Tát của đức Phật, họ đều là minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, có thể tách rời thầy, tiêu chuẩn là ở chỗ này. Kiến tánh rồi, có thể thay Phật giáo hóa chúng sanh, có thể đi giáo hóa tại một phương, nơi nào có duyên với quý vị, quý vị liền đến nơi đó, “Phật độ người hữu duyên”. Không có duyên, quý vị đến cũng uổng công! Phật độ người hữu duyên mà! Do vậy, ở đây chúng ta phải nhớ kỹ “Giới là căn bản”, phải tu học từ căn bản thì mới là đúng!
Chúng tôi khuyên mọi người học một bộ kinh, học một bộ kinh là học với một vị thầy. Ở Đài Trung, tôi thờ cụ Lý Bỉnh Nam làm thầy, nhưng Ngài không công nhận như thế. Lão nhân gia rất khiêm hư, cụ xem chúng tôi như đồng học, cụ lớn tuổi hơn một chút, có thời gian học lâu hơn chúng tôi, đến dạy kèm chúng tôi, chẳng dám nhận lấy thân phận làm thầy, đấy chính là đức hạnh của cụ. Cụ răn dạy chúng tôi thờ Ấn Quang đại sư làm thầy, Ấn Quang đại sư là thầy cụ; nói cách khác, chúng tôi mang thân phận đồng học kẻ trước người sau, cùng ở một chỗ với nhau như thế đó. Quý vị thấy lão nhân gia rất khiêm hư, chúng tôi không bằng được thầy Lý, sao dám nhận thân phận làm thầy? Thầy Lý dạy tôi học Ấn Tổ (tổ Ấn Quang), đương nhiên Ấn Tổ thật phi thường, [Ngài là] Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai mà, làm sao lầm lẫn được! Quyết định không lầm!
Nhưng hiện thời chúng ta tu học, chiếu theo nguyên tắc cơ bản thầy đã nói, chúng ta chọn ra một bộ kinh, căn cứ theo một bộ chú giải, bộ chú giải ấy do ai viết thì vị ấy là thầy ta, như vậy là không sai. Trực tiếp nương theo kinh thì Phật là thầy của chúng ta. Chúng ta chuyên học Vô Lượng Thọ Kinh thì A Di Đà Phật là thầy chúng ta. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ soạn một cuốn chú giải cho kinh Vô Lượng Thọ, cụ Hoàng cư sĩ là đồng học của chúng ta, cụ là trưởng tràng của chúng ta, vì chúng ta chọn lọc, tổng hợp rất nhiều tài liệu quý báu. Nhưng chẳng thể chiếu theo bản chú giải ấy để giảng giải kinh, dựa theo bản chú giải ấy để giảng kinh chắc chắn quý vị sẽ thất bại. Tôi đã giảng kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần, quý vị nghe kỹ lời tôi giảng rồi đem so sánh với những gì cụ chú giải, tôi chẳng hề chọn dùng những lời chú giải của cụ. Tôi thường nói: Đối với người mới học, bản chú giải ấy có tác dụng như là đại từ điển của kinh Vô Lượng Thọ, bất luận đối với danh tướng hay đối với nghĩa lý đều có rất nhiều tài liệu tham khảo. Cụ tập hợp những lời giải thích kinh Vô Lượng Thọ của cổ đại đức, có đặc tánh rất gần giống với bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông. Bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của Giang lão cư sĩ cũng có thể coi như là một bộ đại từ điển của kinh Kim Cang.
Chúng ta học kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, [thấy] Thiện Đạo đại sư chú giải khác hẳn, Ngài không tổng hợp toàn bộ [những chú giải] của mọi nhà, bản thân Ngài quả thật có những kiến giải độc đáo, thật khác hẳn. Mọi người đều biết ngài Thiện Đạo chính là hóa thân của A Di Đà Phật tái lai. Trong lịch sử Trung Quốc, hóa thân của Phật A Di Đà là Thiện Đạo đại sư, Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, Phong Can hòa thượng. Trong lịch sử, ba vị này gần như chắc chắn [thật sự là hóa thân của Phật A Di Đà]. Ngài Thiện Đạo là A Di Đà Phật tái lai, bản chú giải của ngài Thiện Đạo là A Di Đà Phật đích thân tự chú giải, há còn lầm chăng? Do vậy, chúng ta phải học kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta phải y chỉ Thiện Đạo đại sư, làm học trò của Thiện Đạo đại sư.
Chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà, kinh A Di Đà có hai bản chú giải, một là cuốn Sớ Sao của Liên Trì đại sư, còn bản kia là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư. Học Sớ Sao, chuyên chú dụng công nơi Sớ Sao thì ngài Liên Trì là thầy. Học Yếu Giải, bèn chuyên chú dụng công nơi Yếu Giải thì ngài Ngẫu Ích là thầy. Thời cận đại, sách Yếu Giải có bộ Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh[3], bộ Thân Văn Ký của pháp sư Bảo Tịnh[4], chúng ta coi sư Viên Anh, Bảo Tịnh như trưởng lớp, kèm cặp chúng ta, chúng ta thờ ngài Ngẫu Ích làm thầy, còn sai được chăng? Chúng ta thật sự tìm được thiện tri thức, thật sự tìm được thầy.
[Đối với] Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, chúng ta nương theo bản Sớ Sao của pháp sư Từ Vân Quán Đảnh[5], bản ấy chúng tôi đã in rất nhiều. Với Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm thì chúng ta nương theo bản Sớ Sao của Thanh Lương đại sư. Thanh Lương, Tông Mật là thầy, quyết định không sai. Cả một đời chuyên chú dụng công, chuyên tu, phải như vậy mới có thể thành công, đừng học loại thứ hai nào nữa! Những thứ được tôi giảng đây chỉ nhằm để cung cấp tài liệu tham khảo cho quý vị, giúp cho quý vị thâm nhập lý giải, nhất định phải thâm nhập một môn, y giáo phụng hành, đấy mới là hữu dụng!
Nhất định phải hiểu mỗi một bộ kinh bao gồm bốn bộ phận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thứ nhất là Giáo, Giáo là văn tự, chúng ta thường nói “tiêu văn” [tức là] thông đạt văn tự không chướng ngại, đó là Giáo, đấy là bước tu học thứ nhất. Thứ hai là Lý, [tức là] những lý luận được giảng trong [bộ kinh] ấy, phải hiểu rõ đạo lý đã được giảng bởi kinh ấy, hiểu rõ lý luận, tự nhiên quý vị sẽ có tín nguyện. Thứ ba là Hạnh, phải biến lý luận thành tư tưởng, hành vi của chúng ta, biến giáo huấn thành chỗ dựa, thành căn cứ để chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật. Tư tưởng, lời lẽ, hành trì của chúng ta đều là những gì quý vị đã học từ bộ kinh ấy. Nói cách khác, quý vị học kinh Vô Lượng Thọ, quý vị liền biến thành Vô Lượng Thọ Phật, quý vị học kinh A Di Đà liền học thành A Di Đà Phật, quý vị học Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm liền thành Phổ Hiền Bồ Tát, quý vị học Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, quý vị liền là Đại Thế Chí Bồ Tát. Ấy mới gọi là học, học được giống như các Ngài. Chúng ta có giống như Phật hay chăng? Giống như Bồ Tát hay chăng? Trong khởi tâm động niệm, xử sự đãi người, tiếp vật [phải học] như thế thì mới gọi là “Giới là căn bản”, mới gọi là “học từ căn bản”.Do vậy, Giới ở đây là nghĩa rộng, chứ không phải nghĩa hẹp. Đấy là nói học theo một nhà, dốc sức nơi một bộ kinh. Chúng ta cùng một tông phái, cùng một phương hướng, cùng một mục tiêu, tuy học kinh không giống nhau, nhưng phương hướng, mục tiêu hoàn toàn nhất trí. Chúng ta lấy Lục Hòa Kính làm cơ sở, mọi người cùng tu, cùng nhau học tập, đây – kia khuyến khích lẫn nhau, dùi mài, gọt giũa lẫn nhau.
Cổ đức giảng kinh, tuyên giảng, còn chúng tôi không dám. Tôi giảng kinh bên ngoài từ trước đến nay chẳng dám nói là giảng kinh, tôi chỉ báo cáo sự tu học, tôi dùng thái độ, tâm tưởng này. Đồng học chúng ta tụ lại một chỗ, mỗi một người báo cáo sự tu học của chính mình, mọi người ở cùng một chỗ cùng nhau thảo luận. Tôi báo cáo kinh Vô Lượng Thọ, các quý vị nghe xong đối với nội dung kinh Vô Lượng Thọ đều hiểu rõ ràng, quý vị báo cáo kinh A Di Đà, chúng tôi cũng nghe. Những kinh điển như thế ấy của tông này chúng ta đều học hết, nhưng tôi chỉ phát huy tại một bộ kinh. Tôi nghe năm kinh một luận, lúc tôi báo cáo sự nghiên cứu tu tập bên ngoài, đem tất cả những gì nghe được gộp vào trong kinh Vô Lượng Thọ để báo cáo. Quý vị học A Di Đà Kinh Yếu Giải, quý vị dung hội quán thông những gì đã nghe được từ năm kinh một luận, đều gộp hết vào Yếu Giải để báo cáo. Chúng ta đem ý nghĩa kinh, đem sự tu học giới thiệu với đại chúng như thế, dâng lên đại chúng, khiến cho người ta nghe đến đều vui vẻ tiếp nhận thì chúng ta tu học thành công.
Chúng ta lắng lòng quán sát, trình độ học Phật trong thế giới hiện thời cao nhất là ở Trung Quốc đại lục. Qua những sách vở và băng thâu âm được gởi đến Đại Lục, quý vị có thể thấy được [điều ấy]: Họ có chọn lựa, họ có so sánh. Có rất nhiều băng thâu âm được gởi sang Đại Lục, họ nghe một lần bèn bảo quý vị: “Sau này các vị không cần phải gởi những băng thâu âm này nữa, chúng tôi không muốn nghe. Những loại sách này chúng tôi đã đọc rồi, về sau không cần gởi nữa”. Từ chỗ này biết được rằng trình độ học Phật của họ so ra cao hơn chúng ta. Chúng ta học thứ này thứ nọ loạn cả lên, học hỗn tạp, bọn họ đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Đầu óc tỉnh táo, sáng suốt nên phân biệt dễ dàng. Nay chúng ta không phân biệt dễ dàng [là vì] học quá nhiều, quá tạp, quá loạn, khả năng phân biệt bị mất đi rồi, đáng tiếc quá chừng! Nói thật ra, chúng ta không bằng người ta! Phải chú ý chỗ này. Đoạn thứ mười nói:
Thập, nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật Tạng Toàn Thư.
(Mười, nếu thích đọc rộng, hãy tự xem Luật Tạng Toàn Thư)
“Nhược nhạo quảng lãm”: Chữ Nhạo nên đọc theo Khứ Thanh[6], đọc giống chữ Dược (yàu)[7], có nghĩa là yêu thích. Quý vị ưa thích học rộng nghe nhiều thì hãy “tự đương duyệt Luật Tạng Toàn Thư” (hãy tự xem Luật Tạng Toàn Thư) vì ở đây Liên Trì đại sư giới thiệu hết sức giản lược cho chúng ta, giới thiệu đại cương. Cái hay của đại cương là chúng ta dễ thực hiện được trong sanh hoạt thường ngày. Nếu quý vị có hứng thú nơi Giới Luật, muốn thâm nhập nghiên cứu, đương nhiên phải cần đến Luật Tạng Toàn Thư. Đây cũng chính là Luật Tạng trong Tam Tạng kinh điển, nội dung rất rộng, rất phong phú.
Đây là đoạn văn dẫn nhập mở đầu, mà cũng là phần khái luận như trong các sách vở hiện thời, phần dẫn nhập đến đây là hoàn tất, câu cuối cùng là lời tổng kết của phần dẫn nhập. Từ đoạn mười một trở đi, chúng ta có thể coi như là phần Chánh Tông của cuốn sách này, chánh thức giới thiệu với chúng ta.
Thập nhất, hậu Thập Giới, xuất Sa Di Thập Giới Kinh, Phật sắc Xá Lợi Phất, vị La Hầu La thuyết.
(Mười một, mười giới sau đây trích từ kinh Sa Di Thập Giới, Phật bảo Xá Lợi Phất nói cho La Hầu La)
“Hậu Thập Giới, xuất Sa Di Thập Giới Kinh” (mười giới sau đây trích từ kinh Sa Di Thập Giới): Cho biết Sa Di Luật Nghi Yếu Lược là từ nơi đâu mà có, Liên Trì đại sư có căn cứ, Ngài trích lục từ kinh Sa Di Thập Giới[8] ra. Giống như chúng ta thấy thể loại trích lục tinh hoa của một bộ kinh hiện thời, đây là một sách trích lục tinh hoa của Sa Di Thập Giới Kinh do Liên Trì đại sư vì chúng ta trích lục. Cuốn sách này không phải là Sa Di Thập Giới Kinh hoàn chỉnh, mà là trích lục [từ kinh ấy] ra. Việc trích lục này nhằm để thuận tiện cho sự tu trì.
“Phật sắc Xá Lợi Phất, vị La Hầu La thuyết” (Phật bảo Xá Lợi Phất nói cho La Hầu La): Sa Di Thập Giới Kinh không phải do đức Phật nói, mà do tôn giả Xá Lợi Phất nói. La Hầu La xuất gia y chỉ với hòa thượng là ngài Xá Lợi Phất. Do vậy, trong Tăng đoàn, sư ông của La Hầu La là Phật, sư phụ là Xá Lợi Phất. Trong Tăng đoàn, La Hầu La mang thân phận như vậy, có vai vế rất nhỏ, chúng ta phải biết điều này. Đoạn lịch sử này Hoằng Tán đại sư cũng trích lục vài phần; lời chú giải này cũng do Hoằng Tán đại sư trích lục. Mọi người xem đi, nếu có chỗ nào chưa hiểu rõ thì hãy nêu câu hỏi, không hỏi thì chúng tôi sẽ lướt qua. Hãy xem tiếp điều thứ mười hai kế đó, đây chính là [một giới trong] Thập Giới.
Thập nhị, nhất viết bất sát sanh.
(Mười hai, một là không sát sanh)
Điều thứ nhất trong Mười Giới. Giới Luật có hai thứ, một thứ là thuần vì tự lợi, một loại khác là lợi tha – tự lợi cả hai đều đầy đủ. Trong giới tự lợi thì điều thứ nhất là không dâm dục, trong giới lợi tha thì điều thứ nhất là không sát sanh. Không sát sanh nhằm bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình, đại từ đại bi. Phật pháp là “từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Không có đại từ bi sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo. Do vậy, muốn được thành Phật phải khởi sự tu từ tâm từ bi, tu dưỡng cái tâm từ bi chân thật của chính mình. Trong tự lợi thì không dâm dục nhằm bồi dưỡng cái tâm thanh tịnh của chính mình, quyết định vượt thoát tam giới, liễu thoát sanh tử.
Phật dạy vì sao một cá nhân bị lưu chuyển trong tam giới? Do vì dâm dục! Dâm dục là căn bản của tam giới lục đạo. Cổ đức thường nói: “Ái bất trọng bất sanh Sa Bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh Độ” (Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà, niệm chẳng chuyên nhất chẳng sanh Tịnh Độ). Muốn vãng sanh Tịnh Độ, niệm phải chuyên nhất. “Nhất” nghĩa là nhất tâm bất loạn; đạt đến nhất tâm bất loạn thì không ai chẳng vãng sanh! Ái dục không đoạn sẽ chẳng thể vượt thoát sanh tử luân hồi được! Quý vị phải hiểu: Chẳng những không thể vượt thoát, mà trong tam giới quý vị chỉ có thể ở trong Dục Giới, không thể sống trong Sắc Giới. Sắc Giới là ngũ dục đều đã đoạn hết, [tức là] năm điều Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy (của cải, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) đều không có. Nhưng họ không thật sự đoạn; nếu thật sự đoạn liền ra khỏi tam giới. Bọn họ chỉ “phục đoạn” (đoạn bằng cách đè nén, khuất phục), bọn họ có định lực, dùng công năng của Định để chế ngự khuất phục phiền não, chẳng cho chúng dấy lên, chẳng khởi tâm động niệm, họ dùng công năng định lực khuất phục, chế ngự, nên mới có thể sanh lên Sắc Giới, sanh lên Vô Sắc Giới. Nếu không chế ngự được những ý niệm ấy, dù tu giỏi đến đâu vẫn ở trong Dục Giới. Cao nhất trong Dục Giới là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Do vậy, phải hiểu rõ tự lợi và lợi tha. Vì sao Phật dạy điều thứ nhất là không sát sanh? Có Giới kinh dạy điều thứ nhất là không dâm dục, trọng điểm không giống nhau. Do vì Sa Di Giới là căn cơ của Bồ Tát, của Phật, tự lợi, lợi tha [gồm đủ], điều thứ nhất là không sát sanh, bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình.
Phần chú giải có lời giải thích đơn giản: “Đoạn mạng viết Sát, hữu tình viết Sanh” (Dứt mạng là Sát, có tình thức là Sanh). Nói rất rõ ràng! Chữ “Sanh” chỉ cho hữu tình chúng sanh, hữu tình chúng sanh là động vật, đối với tất cả hết thảy động vật chúng ta phải có tâm thương xót, chẳng nên sát hại. Trong kinh Tân Ước và Cựu Uớc của Cơ Đốc Giáo, Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christ) cũng có bốn điều răn, hết sức giống với bốn giới trọng ở đây. Điều thứ nhất là “không được giết người”, phạm vi của điều này rất nhỏ, không nên giết người thôi, không bao gồm những loài động vật vào trong đó. Kế đến là “không tà dâm”, “không trộm cắp” và “không nói dối”, đều giống với Tại Gia Ngũ Giới của chúng ta. Trong Ngũ Giới của chúng ta có giới “không uống rượu”, bọn họ không có. Chúng ta nói “không sát sanh”, bọn họ nói “không được giết người”, sai khác ở chỗ này.
Thập tam, giải viết
(Mười ba, giải rằng)
Dưới đây là phần giải thích.
Thập tứ, thượng chí chư Phật, thánh nhân, sư tăng, phụ mẫu.
(Mười bốn, trên đến chư Phật, thánh nhân, sư tăng, cha mẹ).
Thập ngũ, hạ chí quyên phi nhụ động, vi tế côn trùng.
(Mười lăm, dưới đến những loài cựa quậy, bay, bò, côn trùng nhỏ nhặt)
Thập lục, đản hữu mạng giả, bất đắc cố sát.
(Mười sáu, chỉ cần có mạng thì không được cố ý giết).
Đây là giảng về phạm vi không sát sanh. Quý vị thấy rất đơn giản, nói rất rõ ràng rành mạch, mọi người phải học tập điểm này. Đặc biệt là trong thời đại này, khoa học kỹ thuật phát đạt, thông tin phát triển, sự tiếp xúc giữa người với người hết sức dày đặc; do vậy, ngôn ngữ, văn tự phải sao cho đơn giản, càng đơn giản càng hay, càng đơn giản càng được hoan nghênh. Không nên trường thiên đại luận, cà kê dài dòng, phải biết giảm bớt thời gian cho người ta. Do vậy, Đông – Tây đều yêu cầu “giản, yếu, tường, minh” [tức là] đơn giản, nêu được những điểm quan trọng, nhưng phải rất tường tận, rất rõ ràng. Các quý vị thấy mấy câu [giải thích] trên đây rất phù hợp với [yêu cầu] “giản, yếu, tường, minh” Khi chúng ta giảng kinh hay báo cáo bên ngoài đều phải biết “giản, yếu, tường, minh”
Phạm vi của giới này trên là đến “chư Phật, thánh nhân”, “thánh nhân” chỉ [những vị] từ A La Hán trở lên; do vậy, phạm vi của nó rất rộng. Từ Tiểu Thừa Sơ Quả trở lên đều gọi là “thánh nhân”. Có những vị Sơ Quả đã đoạn được tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc[9] trong tam giới, chứng đắc Vị Bất Thoái trong Tam Bất Thoái, các ngài tuyệt đối chẳng đọa thành phàm phu trở lại. Từ trong kinh, chúng ta thấy rất rõ ràng: Tuy Ngài chưa ra khỏi tam giới, qua lại bảy lần trong cõi trời, cõi người, chẳng cần biết có gặp được Phật pháp hay không, Ngài đều thành tựu. Gặp được Phật pháp, ngài thành Thanh Văn, chứng quả A La Hán; không gặp được Phật pháp, ngài thành Bích Chi Phật, thành Độc Giác. Do vậy, Ngài tuyệt đối không phải [thọ sanh] đến lần thứ tám, Ngài nhất định qua lại bảy lần trong cõi trời, cõi người, bèn chứng quả. Ấy là thánh nhân, quyết định chẳng đọa lạc trong tam đồ. Do vậy, Sơ Quả là Dự Lưu, từ địa vị này trở đi đều gọi là “thánh nhân”. Cúng dường thánh hiền là đại phước báo, há nên sát hại?
Từ thánh hiền trở xuống, có ân đức lớn nhất đối với chúng ta là thầy. “Thầy” ở đây chúng ta thường gọi là “hòa thượng”, ngài là Thân Giáo Sư của chúng ta. Ta theo học Phật pháp với ngài, đó là Thân Giáo Sư. Ân đức thầy vượt trội [ân đức] cha mẹ. Ân đức cha mẹ đối với chúng ta là ân dưỡng dục trong một đời, ân đức của thầy đối với chúng ta là ân đức giúp chúng ta khôi phục Pháp Thân Huệ Mạng; vì thế, ân đức thầy cao hơn cha mẹ, đấy là ân thầy!
Thầy dạy trong thế gian của chúng ta không có năng lực ấy cho nên địa vị của thầy dạy trong thế gian kém hơn cha mẹ. Không như trong Phật pháp, Phật pháp xếp thầy dạy trên cha mẹ. Trong quá khứ chúng tôi ở Đại Lục, ở nhà mỗi người tại Đại Lục đều thờ bài vị tổ tiên, nghèo hèn hay phú quý đều giống nhau, người như thế nào đi nữa cũng nhất định thấy có thờ bài vị tổ tiên trong nhà họ. Hiện thời đều không còn nữa, hiện tại ở Đại Lục cũng không thờ bài vị tổ tiên nữa. Ở Giang Nam, bài vị tổ tiên đề “thiên địa quân thân sư” (trời, đất, vua, cha mẹ, thầy), thờ như thế đó! “Thân” là cha mẹ, thầy được thờ ở dưới cha mẹ. Cách thờ như vậy là đúng vì thầy dạy trong thế gian không giúp chúng ta thoát khỏi tam giới, không giúp chúng ta lìa khỏi lục đạo luân hồi. Ân thầy và ân cha mẹ bình đẳng, nhưng chúng ta vẫn đặt cha mẹ lên trên. Hòa Thượng trong Phật pháp khác hẳn, Ngài giúp chúng ta liễu sanh tử, thoát tam giới, ân đức ấy cha mẹ không thể làm được, thầy dạy trong thế gian chẳng thể làm được; vì thế, đặt thầy lên trên cha mẹ, hãy nên chú ý điều này.
Dưới Sư là Tăng, Tăng là người xuất gia, là người truyền thừa Phật pháp. Tuy không trực tiếp dạy dỗ chúng ta, họ có thể giáo hóa hết thảy chúng sanh, giúp chúng sanh liễu sanh tử, xuất tam giới. Vì thế, trong chữ “Sư Tăng” này, Sư là Hòa Thượng đích thân chỉ dạy chúng ta, [còn Tăng là] những vị xuất gia không chỉ dạy ta, nhưng đức hạnh, năng lực, sứ mạng của họ chẳng khác gì Hòa Thượng của ta. Tuy không trực tiếp chỉ dạy ta, ta cũng phải tôn kính họ. Tiếp đến là “phụ mẫu”.
Thánh nhân có thế gian thánh nhân, có xuất thế gian thánh nhân, ở đây giải thích rất hay. Tổng hợp các ý nghĩa lại, chúng ta có thể dùng bốn câu để bao quát toàn bộ: “Có đức hạnh, tâm quang minh, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Tâm địa thanh tịnh, quang minh, ngôn hạnh hữu đức (lời nói lẫn hành vi đều có đạo đức – tiêu chuẩn là đạo đức), bốn câu này bao trọn tất cả những ý nghĩa trong lời chú giải. Quý vị nên xem kỹ trong phần chú giải.
Chúng ta xem đoạn thứ mười lăm, “hạ chí quyên phi nhụ động, vi tế côn trùng” (cho đến những loài côn trùng cựa quậy, bay, bò, nhỏ nhặt). Đã nói những hạng cao rồi lại nói bậc thấp, bao gồm tất cả trong ấy, lược bớt phần giữa. “Quyên phi nhụ động” là những loài trùng nhỏ, những thứ côn trùng bé nhỏ như muỗi mòng, kiến… Tuy là tiểu trùng, nó vẫn có thần thức, là một chúng sanh, cũng đều có một cái mạng! Chỉ là vì nghiệp chướng nặng nề, đọa lạc trong đường súc sanh, biến thành tiểu trùng. Trong loài súc sanh, chúng bị sanh tử nhiều lần, đấy là do nghiệp chướng biến hiện. Chúng ta phải hiểu “kiến, muỗi cũng có thể thành Phật”. Khi chúng trả hết nghiệp báo, chúng sẽ chuyển sanh vào loài người, chúng ta cũng chớ nên coi thường chúng.
Trong Giới Kinh kết tội sát nghiệp nặng – nhẹ bất đồng. Chẳng hạn như Phật, Bồ Tát, thánh hiền, sư tăng, phụ mẫu đã nói trong phần trên, sát hại những vị ấy tội cực nặng. Không thông qua sám hối, không có cách sám hối thì thành tội Ngũ Nghịch. Trong Giới Kinh đã dạy: Quả báo của tội Ngũ Nghịch là tại A Tỳ địa ngục, muốn thoát ra hết sức khó khăn! Thật sự phải trải qua vô lượng kiếp, nên biết điều này! Còn như sát hại những loài côn trùng nhỏ nhặt, phạm những tội ấy thì có thể sám hối. Hễ sám hối thì tội ấy liền nhẹ đi, chẳng nặng như trong phần trên. Nói cách khác, người có ân đức càng nặng đối với chúng ta mà quý vị muốn sát hại thì tội ấy càng nặng. Hết thảy chúng sanh có quan hệ thật nhẹ, thật mỏng đối với chúng ta thì tội [sát hại] ấy cũng nhẹ.
Sát hại chư Phật, Bồ Tát, thánh hiền, chữ “thánh hiền” ấy bao gồm cả thánh hiền thế gian, kết thành tội trong A Tỳ địa ngục. Điều này chẳng thuộc nơi cá nhân chúng ta. Chúng ta không qua lại với họ, họ cũng không có ân đức gì với ta, vì sao sát hại họ lại mắc tội nặng đến như thế? Vì họ là khuôn mẫu cho tất cả đại chúng trong một xã hội, trong một địa phương, họ ở nơi ấy có thể làm cho nơi ấy thay đổi phong tục, làm cho lòng người được thanh tịnh, công đức ấy lớn lắm. Vì thế, thánh hiền thế gian hay xuất thế gian công đức vô cùng lớn, đáng gọi là “nhân thiên nhãn mục” (tròng mắt cho trời người), hạnh phúc của đại chúng, an toàn xã hội đều dựa vào sự chỉ dạy của họ. Giết hại họ là tội nặng! Do vậy, kết tội với họ là kết tội nơi thân chúng sanh.
Phật là tam giới đạo sư cho nên giết Phật là tội nặng nề nhất. Phật là đại thánh nhân; nói thật ra, phước báo của Ngài quả thật rất lớn, không ai có thể giết được Phật, chẳng thể nào! Vì thế, hễ “làm thân Phật chảy máu” chính là có tâm ác đối với Phật, giống hệt như giết hại Phật, tội đó là tội A Tỳ địa ngục. Quý vị phải biết: Tuy chúng ta vô ý giết hại những động vật nhỏ, tội lỗi rất nhẹ, nhưng chúng nó có ôm lòng báo thù trong tương lai hay không? Chắc chắn có! Chúng ta giết lầm người khác, tương lai cũng sẽ bị giết lầm. Quý vị nhớ ngài An Thế Cao là người phiên dịch kinh Bát Đại Nhân Giác, quý vị xem trong truyện ký của ngài An Thế Cao: Đời trước An Thế Cao từng giết lầm người, không phải cố ý, chỉ là giết lầm, đời này vẫn phải đền mạng, cũng bị người khác giết lầm. Quả thật, một miếng ăn, một hớp uống đều có nhân quả, chẳng thể không biết, chẳng thể không lưu ý.
Quý vị muốn được thuận buồm xuôi gió trên con đường Bồ Đề, phải nghiêm trì giới luật, phải đại bi thanh tịnh thì mới có thể đạt được. Nếu không, đời đời kiếp kiếp oán gia trái chủ sao không gây rắc rối cho quý vị được? Vì thế, người thật sự tu hành hiểu rõ đạo lý này, biết sự thực này thì “cảnh nghịch xảy đến bèn vâng chịu”. Gặp phải nghịch cảnh, gặp phải nghịch duyên, biết là trong quá khứ mình đối xử với người ta không ra gì, đương nhiên đời này họ gây khó khăn cho mình, quý vị dùng tâm thanh tịnh, tâm nhu hòa để tiếp nhận. Chúng ta tính sổ xong xuôi, thanh toán xong, về sau không còn nữa. Nếu như tâm bất bình thì oán ấy càng kết sâu, rắc rối càng lớn. Hôm nay chúng tôi giảng đến đây thôi!
[1] Đàm Nhất (692-771) là cao tăng đời Đường, người xứ Sơn Âm, xuất gia vào niên hiệu Cảnh Long, tinh thông nội điển lẫn ngoại điển. Lúc đầu, Sư theo học bộ Hành Sự Sao với ngài Đàm Thắng, sau lên Trường An, thờ ngài Thái Lãng của tông Tướng Bộ làm thầy, soạn sách Phát Chánh Nghĩa Ký, xiển dương sự khác biệt trong giáo nghĩa của hai tông Nam Sơn (Luật Tông) và Tướng Bộ. Sau Sư về trụ trì chùa Khai Nguyên ở Cối Kê, trước sau giảng Tứ Phần Luật ba mươi lăm lần, giảng Hành Sự Sao hơn hai mươi lần, độ chúng đến mười vạn người. Người đương thời xưng tụng Sư là “Nhân Trung Sư Tử”. Sư thị tịch năm Đại Lịch thứ sáu, thọ 80 tuổi, đệ tử có những bậc nổi tiếng trong Luật Tông như Lãng Nhiên, Thần Hạo, Biện Tú, Đạo Ngang v.v…
[2] Cửu Thứ Đệ Định (navānupūrva-samāpattayah), có nghĩa là chín loại Định được tu theo thứ tự không gián đoạn. Còn gọi là Vô Gián Thiền, hoặc Luyện Thiền, gồm Tứ Thiền trong Sắc Giới, Tứ Xứ trong Vô Sắc Giới và Diệt Thọ Tưởng Định. Do chẳng xen lẫn với những tâm khác, theo thứ tự nhất định từ định này tiến vào định kia nên gọi là Thứ Đệ Định. Do không có niệm khác xen tạp nên gọi Vô Gián Thiền. Lại do dùng những môn Thiền này để luyện cho thiền hạnh thanh tịnh, giống như luyện vàng nên gọi là Luyện Thiền.
[3] Viên Anh (1878-1953) là một vị cao tăng thời cận đại, người xứ Cổ Điền, tỉnh Phước Kiến. Pháp danh Hoằng Ngộ, hiệu Thao Quang. Sư sanh vào năm Quang Tự thứ 4 đời Thanh, mồ côi từ bé. Năm 19 tuổi đến Cổ Sơn xin xuất gia, chuyên tu theo tông Thiên Thai. Sau sang chùa Thiên Ninh ở Ninh Ba học Thiền. Năm 26 tuổi, tham học với Kính An Hòa Thượng chùa Thiên Đồng. Sau đi giảng kinh khắp vùng Phước Kiến, Chiết Giang. Năm Quang Tự 32 (1906), Sư quen thân với ngài Thái Hư, kết nghĩa huynh đệ. Khi ấy, Sư đã 29 tuổi, Thái Hư mới 18. Sư tận lực tổ chức Trung Quốc Phật Giáo Hội cũng như vận động bảo vệ tài sản của tự viện trước những âm mưu “thâu đoạt chùa chiền biến thành trường học” của chính quyền Quốc Dân Đảng. Sư từng đứng đầu hội Phật Giáo Trung Quốc. Khi cuộc kháng Nhật nổ ra, Sư tích cực vận động quyên góp thuốc men hỗ trợ quân đội. Sư đặc biệt chú trọng sáng lập những cơ cấu từ thiện, phục hưng chùa chiền các nơi, lập ra những tạp chí Phật giáo, cứu trợ đồng bào bị nạn. Tuy bận rộn với công tác tổ chức giáo hội, Sư vẫn tích cực hoằng pháp, trước tác rất nhiều, nhất là chú giải kinh Lăng Nghiêm. Trước tác gồm có Viên Anh Văn Tập, Viên Anh Đại Sư Pháp Vựng.
[4] Bảo Tịnh (1899-1940) là một vị cao tăng thời cận đại, người xứ Thượng Ngu, tỉnh Chiết Giang. Thuở nhỏ Sư đọc Cao Tăng Truyện bèn có chí hướng xuất gia. Sau khi tốt nghiệp đại học, Sư liền xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Về sau, thân cận Đế Nhàn Pháp Sư để tham học giáo nghĩa Thiên Thai Giáo Quán. Năm 1927, Sư sáng lập tờ Hoằng Pháp Nguyệt San, thường qua lại giảng kinh thuyết pháp ở Thượng Hải, Hàng Châu, Hương Cảng, Quảng Đông v.v… Sư thị tịch năm 1940 tại chùa Ngọc Phật tại Thượng Hải, trụ thế 41 năm. Những trước tác nổi tiếng nhất của Sư là Đại Thừa Khởi Tín Luận Giảng Nghĩa, Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu Giảng Thuật, Phổ Môn Phẩm Dư Giảng, Phật Di Giáo Kinh Giảng Nghĩa,A Di Đà Kinh Yếu Giải Thân Văn Ký…
[5] Tục Pháp (1641-1728), người đời Thanh, quê ở Nhân Hòa (Hàng Châu), tỉnh Chiết Giang, họ Trầm, tự Bá Đình, hiệu Quán Đảnh, còn có hiệu là Thành Pháp. Năm lên chín tuổi xuất gia với ngài Minh Nguyên tại chùa Từ Vân núi Thiên Trúc, Hàng Châu, thọ Cụ Túc năm 19 tuổi, 20 tuổi bắt đầu giảng kinh, được ngài Minh Nguyên phó pháp kế tục đời thứ năm thuộc pháp hệ của tổ Liên Trì Châu Hoằng. Sư bác lãm kinh điển, dung thông các học thuyết, không câu nệ. Mỗi lần Sư lên giảng tòa, tứ chúng tụ về nghe rất rộng. Sư thị tịch năm Ung Chánh thứ sáu, thọ 88 tuổi, các đệ tử trứ danh nhất là Bồi Phong, Từ Duệ, Trung Chánh, Thiên Hoài. Trước tác Sư để lại gồm những bộ Hiền Thủ Ngũ Giáo Nghi, Viên Giác Chiết Nghĩa Sớ, Hoa Nghiêm Tông Phật Tổ truyện v.v.. Tác phẩm Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao của Sư được coi là tác phẩm chú giải chương Đại Thế Chí Viên Thông hay nhất từ trước đến nay. Do ngài trụ trì chùa Từ Vân nên khi nhắc đến ngài, người ta thường gọi là Từ Vân Quán Đảnh chứ ít khi gọi thẳng pháp danh.
[6] Khứ Thanh trong tiếng Quan Thoại có nghĩa là âm đọc lên giọng, nhẹ hơn dấu sắc của tiếng Việt.
[7] Trong âm Quan Thoại, chữ Dược 藥 có âm đọc là Yàu. Chữ Nhạo (樂) có ba âm đọc là Nhạc (yuè), Lạc (lè) và Nhạo (yàu).
[8] Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật thuyết Sa Di Thập Giới Nghi Tắc Kinh, do ngài Thi Hộ dịch, được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng mang số 1473, tập 24.
Ngài Thi Hộ (Dānapāla), là một vị phiên dịch kinh nổi tiếng thời Tống. Ngài vốn là người xứ Ô Điền Nẵng (Udyāna) ở Bắc Ấn Độ, được người đời xưng tụng là Hiển Giáo đại sư. Không rõ năm sanh và năm mất. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) đời Tống Thái Tổ, Sư cùng ngài Thiên Tức Tai cùng đến Biện Kinh (nay là Khai Phong), ngụ tại viện dịch kinh ở chùa Thái Bình Hưng Quốc, tận lực phiên dịch. Số lượng kinh do Ngài dịch rất nhiều, đủ mọi thể loại, nổi tiếng nhất là các bộ Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Cấp Cô Trưởng Giả Đắc Độ Nhân Duyên Kinh, Quảng Thích Bồ Đề Tâm Luận, Đại Thừa Thập Nhị Tụng Luận, Lục Thập Tụng Như Lý Luận, Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh, Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương Kinh, Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Độ Kinh, Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh v.v…
[9] Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc: Kiến Hoặc còn gọi là Kiến Phiền Não, Kiến Chướng, hay Kiến Nhất Xứ Trụ Địa. Những tên gọi này đều hàm nghĩa Kiến Hoặc là những phiền não, mê hoặc khiến cho hành nhân không thấy được đạo, mê chấp không thấy được Tứ Thánh Đế, không thấy được Phật Tánh. Do khi tu tập thánh đạo, hành nhân phải đoạn trừ những Hoặc này mới thấy được tánh nên còn gọi là Tu Hoặc. Theo luận Câu Xá, Kiến Hoặc về căn bản chính là mười Sử gồm năm lợi sử (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến) và năm độn sử (tham, sân, si, mạn, nghi). Trong Dục Giới thì với Khổ Đế phải đoạn cả 10 Sử, Tập Đế và Diệt Đế mỗi Đế phải đoạn bảy Sử (tức là loại trừ Thân Kiến, Biên Kiến, và Giới Cấm Thủ Kiến ra), Đạo Đế có tám Sử (không có Thân Kiến và Biên Kiến). Do vậy, trong Dục Giới, phối hợp với Tứ Thánh Đế như trên, ta phải đoạn 32 phẩm Kiến Hoặc. Với Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cách tính cũng gần giống như trên, nhưng mỗi Đế đều loại thêm Sân Sử, do đó mỗi Giới phải đoạn 28 Sử. Do vậy, 32 Sử của Dục Giới + 28 Sử của Sắc Giới + 28 Sử của Vô Sắc Giới = 88 món Sử, tức 88 món Kiến Hoặc.