Phần 1/46 – Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký

#CHƯA-UPDATE

PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH YẾU GIẢI GIẢNG KÝ

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Đại học Deanza, California, Hoa Kỳ
Thời gian: Từ 2/6/1993 – Tổng cộng 48 đĩa ghi âm
Ghi chép Giảng ký: Cư sĩ Lý Thừa Phúc (bản dịch tách 46 phần)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)

Mã AMTB: 01-011-0001  đến 01-011-0048

Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký

佛說阿彌陀經要解講記

Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch kinh

姚秦三藏法師鳩摩羅什譯

Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh

清西有沙門蕅益智旭解

Pháp sư Tịnh Không giảng thuật

淨空法師講述

Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép

劉承符居士記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)

Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

 

Lời tựa sách Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giảng Ký

 

         Bậc cao đức đương thời là pháp sư Tịnh Không, họ ngoài đời là Từ, tên tự là Nghiệp Hồng, thuộc gia đình vọng tộc ở An Huy. Từ trẻ đã quảy tráp sang Nam Kinh, tuổi tráng niên vào lính, báo ân quốc gia. Thần Châu[1] thay đổi màu cờ, Sư vượt biển đến Đài Loan. Sẵn có huệ căn, tâm Sư hướng đến Phật thừa, ngộ thế sự vô thường, chán lìa sanh tử. Trước và sau khi xuống tóc, Sư đã từng cầu pháp nơi các vị tôn túc như Chương Gia đại sư, trưởng lão Bạch Thánh[2], cụ Lý Bỉnh Nam, rồi theo học tại Trung Quốc Tam Tạng Phật Giáo Học Viện tại Đài Bắc, dốc lòng nơi thánh điển, xem rộng khắp kinh luận, hạnh lẫn giải đều sâu, thành tựu trác việt.

         Gặp thời Mạt Pháp, các sự khổ chen nhau nung nấu, đời ác ngũ trược, tam độc hừng hực, Sư ôm lòng bi mẫn tha thiết, dốc chí độ sanh, cân nhắc vận mạng của giáo pháp rồi chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ. Suốt ba mươi mấy năm, Sư qua lại các nơi như Đài Loan, Hương Cảng, Singapore, Mã Lai, Mỹ, Gia Nã Đại v.v… hoằng Tông, diễn Giáo, xướng suất niệm Phật, vì pháp quên thân, nằm chẳng ấm chiếu, dốc sức tận tụy, lưỡi bỏng, môi khô.

         Hôm trước, hội trưởng Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội cầm bản thảo cuốn Di Đà Yếu Giải Giảng Ký của Sư tới đây, sai Vân viết lời tựa. Vân mở sách đọc qua, cảm nhận sâu xa [lời Sư giảng giải] đã trần thuật tông chỉ, trình bày mạch lạc, đáng ca ngợi là một tác phẩm khế lý, khế cơ.

         Xét ra, phương pháp tu học trong Phật giáo được mệnh danh là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, rộng rãi, tinh vi, sâu thẳm, ngàn muôn đầu mối, hạng phàm phu lè tè sát đất quả thật chẳng thể nắm được tông chỉ, yếu lãnh. Sách Di Đà Yếu Giải là bộ sách trọng yếu xiển dương, giải thích kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà là kinh pháp khai thị “trì danh niệm Phật, đới nghiệp vãng sanh, vượt thoát khỏi tam giới theo chiều ngang”. Pháp môn này “thích hợp trọn khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn”, thực hiện dễ, thành công cao. Chỉ cần đầy đủ ba món tư lương sẽ đạt được ba môn Bất Thoái. Quả thật là pháp “thuận tiện nhất trong các pháp thuận tiện, là con đường tắt nhất trong những con đường tắt”. Do vậy, cổ đức đã từng bảo: “Nhân thiên lộ thượng, tác phước vi tiên, sanh tử hải trung, niệm Phật đệ nhất” (Trong nẻo trời người, làm phước đứng đầu, trong biển sanh tử, niệm Phật bậc nhất).

         Nay Tịnh công pháp sư[3] vận dụng duệ trí, biện tài, tuyên thuyết chân nghĩa của sách Yếu Giải, lại được trưởng giả Lưu Thừa Phù chép lại thành sách, in tặng, lưu truyền, lợi lạc khắp mọi căn cơ. Dụng tâm hết sức tốt đẹp, công đức vô lượng. Vân ăn bám Như Lai, chẳng làm được một điều gì, kinh sợ, viết bài văn thừa thãi này hòng tùy hỷ tán thán!

Cuối tháng Chạp năm 1996, Thích Tường Vân viết lời tựa tại Đài Loan

 

Nội dung sách Phật Thuyết Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký

 

  1. Dẫn nhập
  2. [Giảng giải] lời tựa nêu nguyên do soạn sách Yếu Giải [của Ngẫu Ích đại sư].

III. Giải thích phần Huyền Nghĩa

  1. Thích Danh (giải thích tên kinh).
  2. Biện Thể (luận định Thể).
  3. Minh Tông (giảng về Tông, tức điều được đề cao, cương lãnh tu học của bản kinh này).
  4. Luận Dụng (luận định lực dụng, tức hiệu quả giáo hóa của kinh này).
  5. Minh Giáo Tướng (phán định giáo tướng, tức luận định kinh này thuộc về thời nào, giáo nào trong Ngũ Thời Bát Giáo, căn cơ nào được hóa độ bởi bản kinh này).

 

  1. Chính thức giảng vào nội dung bài kinh:
  2. Phần Tự

1.1. Thông Tự.

1.2. Biệt Tự.

  1. Phần Chánh Tông

2.1. Trình bày chi tiết sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của diệu quả để khơi gợi lòng tin.

2.2. Khuyên chúng sanh hãy nên phát nguyện cầu vãng sanh.

2.3. Dạy hãy lập hạnh chấp trì danh hiệu.

  1. Phần Lưu Thông

3.1 Phổ Khuyến

3.1.1. Khuyến tín lưu thông.

3.1.2. Khuyến nguyện lưu thông.

3.1.3. khuyến hành lưu thông. 

                       3.2. Kết khuyến.        

 

[1] Thần Châu là một tên gọi khác Trung Hoa. Theo thần thoại, thời cổ ở Trung Nguyên có hai vị vua là Viêm Đế và Hoàng Đế. Viêm Đế lấy lửa tượng trưng cho đức hạnh của chính mình, nên lãnh thổ cai trị của ông ta gọi là Xích Huyện. Hoàng Đế lấy đất làm biểu trưng, lãnh thổ cai trị của ông ta được gọi là Thần Châu. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập Xích Huyện vào Thần Châu, nên người Trung Hoa thường gọi vùng Trung Nguyên là Xích Huyện Thần Châu và tự xưng là “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu của Viêm Hoàng). “Thần Châu thay đổi màu cờ”: Khi Mao Trạch Đông chiến thắng Quốc Dân Đảng, biến Hoa Lục thành Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan.

[2] Trưởng lão Bạch Thánh (1904-1989) quê ở Ứng Thành, tỉnh Hồ Bắc, họ ngoài đời là Hồ, tên là Tất Khang, tên tự là Khiết Nhân. Xin xuất gia với ngài Long Nham tại chùa Kỳ Viên núi Cửu Hoa vào năm 18 tuổi, pháp danh là Đông Phú, sau đó ít lâu, Sư thọ Cụ Túc Giới, pháp tự là Bạch Thánh. Sư từng tham học với những vị tôn túc nổi tiếng thời ấy như Độ Ách (Sư học kinh Lăng Nghiêm từ vị này), Từ Châu, Trí Diệu, Đạo Giới v.v… và bế quan suốt ba năm tại Vũ Xương để nghiên cứu Đại Tạng Kinh. Sư tốt nghiệp từ Pháp Tạng Phật Học Viện ở Thượng Hải, rồi sang Giang Tô, tham học với thiền sư Lai Quả chùa Cao Mân. Sau đó, đi tham học khắp nơi. Sau khi tham học, Sư đảm nhận chức xử lý thường vụ phân hội Phật giáo Thượng Hải, chủ nhiệm giáo vụ của Lăng Nghiêm Phật Học Viện tại Thượng Hải, rồi trụ trì chùa Phong Lâm thuộc Tây Hồ, Hàng Châu, giám viện Tịnh An Tự (Thượng Hải), kiêm viện trưởng Phật Học Viện tại chùa này. Sư sang Đài Loan năm 1948, tổ chức Trung Quốc Phật Giáo Hội, lãnh chức vụ Hội Trưởng nhiều năm, trụ trì các chùa Thập Phổ (Đài Bắc), Lâm Tế Hộ Quốc Thiền Tự, chùa Cực Lạc (Mã Lai)… Đồng thời, sáng lập và điều hành Trung Quốc Phật Giáo Tam Tạng Học Viện, Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Sở. Sư để lại những tác phẩm Phật Giáo Là Gì, Sổ Tay Cho Người Trụ Trì Tông Lâm Tế, Lăng Nghiêm Kinh Biểu Giải, Tứ Phần Giới Bổn Biểu Giải, Học Thiền Phương Tiện Đàm, Thiền Tông Sử Luận Tập, Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký, Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục…

[3] Tịnh công pháp sư: Từ ngữ để gọi hòa thượng Tịnh Không với ý tôn trọng, không gọi rõ pháp danh, pháp tự ra.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *